Toàn văn phát biểu của tổng bí thư tô lâm tại Hội nghị triển khai Nghị quyết 66 và Nghị quyết 68
21/05/2025 - 15:35 | Thông tin doanh nghiệp cần biết
Thưa
các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam,
Thưa các đồng chí tham dự hội nghị ở các điểm cầu.
Thưa toàn thể các đồng chí đảng viên, cán bộ lão thành và
nhân dân cả nước.
Chúng ta đang chứng kiến những chuyển biến sâu sắc chưa từng
có trên phạm vi toàn cầu về địa chính trị, địa kinh tế, về cạnh tranh chiến
lược, về sự dịch chuyển mạnh mẽ của các trung tâm kinh tế, bùng nổ khoa học
công nghệ, cùng với những thách thức về biến đổi khí hậu, an ninh năng lượng,
an ninh truyền thống và phi truyền thống. Những chuyển động này vừa tạo thách
thức, vừa tạo cơ hội cho tất cả các quốc gia. Ai nắm được cơ hội, vượt qua
thách thức thì sẽ thành công. Nếu không thì kết quả sẽ ngược lại và sẽ rơi vào
hoàn cảnh "trâu chậm uống nước đục".
Sau gần 40 năm kiên trì thực hiện công cuộc Đổi mới, đất
nước ta đã đạt những thành tựu to lớn, có thể nói là những thành tựu vĩ đại:
kinh tế tăng trưởng liên tục, đời sống nhân dân được nâng cao, vị thế quốc tế
không ngừng được củng cố. Chúng ta có quyền tự hào, nhưng cũng phải thẳng thắn
nhìn nhận: phía trước còn nhiều thách thức gay gắt, đòi hỏi chúng ta không được
chủ quan, không được ngủ quên bên vòng Nguyệt quế, không được chậm trễ, càng
phải không ngừng đổi mới, cải cách, phát huy mọi nguồn lực và động lực trong xã
hội, trong nhân dân, triển khai một cách sâu sắc, toàn diện, quyết liệt, quyết
tâm đạt được mục tiêu lớn đã đề ra. Những đổi mới, cải cách mà chúng ta đang
triển khai không chỉ là yêu cầu khách quan của phát triển mà còn là mệnh lệnh
từ tương lai dân tộc.
Những đổi mới, cải cách tập trung vào bốn đột phá: Nghị
quyết 57 của Bộ chính trị: thúc đẩy khoa học công nghệ và đổi mới sáng
tạo; Nghị quyết 59 về chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng. Hôm
nay, chúng ta vừa nghe đồng chí Thủ tướng quát triệt Nghị quyết 68:
phát triển mạnh mẽ khu vực kinh tế tư nhân; đồng chí Chủ tịch Quốc hội quán
triệt Nghị quyết 66: đổi mới toàn diện công tác xây dựng, thi hành
pháp luật.
Đến thời điểm hiện nay có thể gọi 4 Nghị quyết trên là
"Bộ tứ trụ cột" để giúp chúng ta cất cánh. Vì vậy Tôi kêu gọi
toàn hệ thống chính trị, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân hãy chung sức, đồng
lòng, vượt qua mọi khó khăn, biến khát vọng thành hành động, biến tiềm năng
thành sức mạnh thực tế, để cùng nhau đưa đất nước ta bước vào kỷ nguyên mới –
kỷ nguyên phát triển, thịnh vượng, hùng cường của dân tộc Việt Nam.
Thưa các đồng chí,
Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo sáng suốt, đúng đắn
của Đảng, sự đồng lòng của toàn dân tộc và nỗ lực bền bỉ của cả hệ thống chính
trị, đất nước ta đã đạt được những thành tựu toàn diện trên hầu hết các lĩnh
vực. Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn được bảo
đảm; chúng ta đã vượt qua các cú sốc toàn cầu, kiểm soát thành công đại dịch
COVID-19, phục hồi nhanh nền kinh tế và giữ vững ổn định xã hội trong bối cảnh
thế giới đầy biến động; chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ được, môi trường hòa bình
được giữ vững; uy tín và vị thế quốc tế của Việt Nam không ngừng được nâng cao;
đất nước tham gia sâu rộng vào các tiến trình hợp tác khu vực và toàn cầu, đời
sống nhân dân tiếp tục được cải thiện, hệ thống an sinh xã hội ngày càng hoàn
thiện.
Tuy nhiên, chúng ta cũng cần thẳng thắn nhìn nhận: đất nước
đang đối mặt với những thách thức lớn. Tăng trưởng kinh tế có dấu hiệu chậm
lại; năng suất lao động, năng lực đổi mới sáng tạo còn hạn chế; chất lượng tăng
trưởng chưa thực sự bền vững; nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình cao vẫn
hiện hữu. Môi trường kinh doanh tuy đã cải thiện nhưng vẫn còn nhiều rào cản;
hạ tầng thiếu đồng bộ; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
còn chưa hoàn thiện.
Bối cảnh quốc tế cũng ngày càng phức tạp, với cạnh tranh
chiến lược giữa các nước lớn, chủ nghĩa bảo hộ gia tăng, các cú sốc địa chính
trị, biến đổi khí hậu và dịch bệnh mới tiềm ẩn nhiều rủi ro. Những thách thức
nội tại và bên ngoài đang đan xen, tạo sức ép lớn, buộc chúng ta phải đổi mới
mạnh mẽ tư duy, cách làm và mô hình phát triển. Chúng ta cần một cuộc cải cách
toàn diện, sâu sắc và đồng bộ, với những đột phá mới về thể chế, cơ cấu kinh
tế, mô hình tăng trưởng và tổ chức bộ máy.
Chỉ có cải cách quyết liệt, bền bỉ và hiệu quả mới giúp đất
nước ta vượt qua thách thức, nắm bắt thời cơ và hiện thực hóa khát vọng phát
triển nhanh, bền vững trong thời kỳ mới.
Thưa các đồng chí,
Nhìn về tương lai, chúng ta xác định rõ: muốn phát triển
nhanh và bền vững, Việt Nam không thể đi theo lối mòn cũ. Chúng ta phải dám
nghĩ lớn, hành động lớn, thực hiện những cải cách lớn với quyết tâm chính trị
cao nhất và nỗ lực bền bỉ nhất.
Bốn Nghị quyết quan trọng của Bộ Chính trị ban hành trong
thời gian gần đây sẽ là những trụ cột thể chế nền tảng, tạo động lực mạnh mẽ
đưa đất nước ta tiến lên trong kỷ nguyên mới, hiện thực hóa tầm nhìn Việt Nam
phát triển, thu nhập cao vào năm 2045. Các đồng chí đã nghe quán triệt những
nội dung chi tiết, Tôi xin điểm lại những tinh thần cốt lõi nhất cùa các nghị
quyết và mối quan hệ tác động lẫn nhau, muốn đạt hiệu quả cao nhất thì chúng ta
phải triển khai tốt đồng thời các nghị quyết này.
Thứ nhất: Phát triển kinh tế tư nhân
trở thành "một động lực quan trọng nhất" của nền kinh tế quốc gia
(theo tinh thần Nghị quyết 68)
Trong tiến trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, việc khơi dậy và phát huy mọi nguồn lực trong xã hội trở
thành đòi hỏi cấp thiết để phát triển nhanh. Nghị quyết 68 của
Bộ Chính trị đã ra đời, thể hiện bước tiến lớn trong tư duy lý luận và chỉ đạo
thực tiễn của Đảng ta: "Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc
gia". Tuy nhiên chúng ta phải khẳng định vai trò chủ đạo, dẫn dắt của doanh
nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Đặc trưng của Việt Nam là "Nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN, có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh
đạo của Đảng".
Những quan điểm này đánh dấu sự thay đổi sâu sắc trong nhận
thức chiến lược về vai trò của khu vực tư nhân: từ vị trí thứ yếu trở thành trụ
cột phát triển, song hành cùng kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, tạo thành
thế "kiềng ba chân" vững chắc cho nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội
nhập thành công. Phát triển kinh tế tư nhân không chỉ là yêu cầu về mặt kinh tế
mà còn là mệnh lệnh chính trị, nhằm củng cố nền tảng tự chủ kinh tế quốc gia,
nâng cao sức cạnh tranh và khả năng thích ứng trong một thế giới đầy biến động.
Trên tinh thần đó, Nghị quyết đặt ra các yêu cầu cải cách
mạnh mẽ, bao gồm: Hoàn thiện thể chế: Bảo vệ quyền tài sản, quyền
tự do kinh doanh, tạo dựng môi trường đầu tư – kinh doanh công bằng, minh bạch,
ổn định. Khơi thông nguồn lực: Mở rộng tiếp cận đất đai, tín dụng,
thị trường, công nghệ cho khu vực tư nhân; tháo gỡ tận gốc các điểm nghẽn thể
chế và chính sách. Thúc đẩy đổi mới sáng tạo: Phát triển mạnh hệ
sinh thái khởi nghiệp sáng tạo; hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân đầu tư vào nghiên
cứu phát triển, tham gia sâu vào mạng lưới sáng tạo và chuỗi giá trị toàn
cầu. Xây dựng đội ngũ doanh nhân hiện đại: Không chỉ giỏi kinh
doanh mà còn có bản lĩnh chính trị, trí tuệ, đạo đức nghề nghiệp, tinh thần dân
tộc và khát vọng cống hiến cho đất nước và vươn tầm thế giới. Trong mặt trận
kinh tế, ai ai cũng phải lao động tạo ra của cải vật chất cho xã hội; ai cũng
có quyền mưu cuộc sống phát triển, hạnh phúc và đóng góp cho sự phát triển của
xã hội; ai cũng có quyền và điều kiện thể hiện khát vọng cống hiến và đổi mới
sáng tạo. Đảng, Nhà nước có trách nhiệm để mọi người dân được thực hiện các
quyền cơ bản của con người, của xã hội
Nghị quyết khẳng định doanh nhân Việt Nam là "chiến
sĩ trên mặt trận kinh tế" trong thời kỳ mới. Họ không chỉ góp
phần làm giàu cho bản thân mà còn thực hiện sứ mệnh cao cả, đó là dựng xây đất
nước hùng cường và thịnh vượng.
Có thể nói, Nghị quyết 68 là đặt nền móng
cho sự chuyển biến toàn diện về chính sách phát triển kinh tế tư nhân: từ
việc "thừa nhận" sang "bảo vệ, khuyến
khích, thúc đẩy", từ "bổ trợ" sang "dẫn
dắt phát triển". Đây là sự lựa chọn chiến lược đúng đắn, cấp thiết,
mang tầm nhìn dài hạn, nhằm hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước hùng
cường vào giữa thế kỷ XXI.
Thứ hai: Tạo đột phá thực sự về khoa học, công nghệ và đổi
mới sáng tạo (theo Nghị quyết 57).
Hôm nay, ngày 18/5, là ngày khoa học công nghệ của Việt Nam,
Tôi xin chúc mừng ngành KHCN Việt Nam. Chúc mừng các nhà khoa học, giới trí
thức, các chuyên gia công nghệ, các doanh ngiệp nhân ngày trọng đại này. Chúc
khoa học công nghệ Việt Nam ngày càng phát triển,...
Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 bùng nổ mạnh
mẽ, chuyển đổi số đang diễn ra sâu rộng, thế giới đang chứng kiến sự thay đổi
căn bản mô hình phát triển. Trước yêu cầu cấp bách đó, Bộ Chính trị đã ban
hành Nghị quyết 57, xác định rõ: Phát triển khoa học, công
nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là đột phá chiến lược, là động lực chủ
yếu thúc đẩy hiện đại hóa đất nước, đổi mới phương thức quản trị quốc gia, phát
triển kinh tế – xã hội nhanh và bền vững.
Quán triệt tinh thần Nghị quyết, chúng ta phải nhận thức sâu
sắc rằng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo không chỉ là phương tiện hỗ
trợ, mà phải được xác định là nền tảng phát triển và lực đẩy chủ yếu cho
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong kỷ nguyên mới.
Nghị quyết yêu cầu tăng cường sự lãnh đạo toàn diện của Đảng
đối với sự nghiệp phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; phát huy
mạnh mẽ vai trò chủ thể của doanh nghiệp, doanh nhân, đội ngũ trí thức và toàn
dân trong công cuộc này. Đây là cuộc cách mạng sâu rộng, toàn diện trên mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội, đòi hỏi chúng ta phải hành động với tinh
thần đổi mới mạnh mẽ, quyết liệt, đồng bộ và nhất quán, không để tư
duy cũ, lối làm việc hình thức, thụ động cản trở tiến trình phát triển.
Với yêu cầu đó, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải tập
trung thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm sau: (1) Nâng cao nhận thức toàn
xã hội, đặc biệt là cộng đồng doanh nghiệp và các cơ quan hoạch
định, thực thi chính sách về vai trò đặc biệt quan trọng của khoa học,
công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số đối với sự nghiệp phát triển đất
nước; (2) Đột phá tư duy phát triển, xóa bỏ mọi rào cản nhận
thức lạc hậu, khơi dậy tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới, dám chịu trách
nhiệm; (3) Củng cố quyết tâm chính trị, tạo sự thống nhất cao trong
toàn hệ thống về chủ trương lấy khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo làm
động lực chủ yếu của phát triển; (4) Hoàn thiện thể chế, chủ động
tháo gỡ các rào cản pháp lý, hành chính, tạo lập môi trường thuận lợi cho sáng
tạo, nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ, biến thể chế thành lợi
thế cạnh tranh quốc gia.
Các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền các cấp phải chỉ đạo
quyết liệt, cụ thể hóa các nội dung của Nghị quyết thành chương trình, kế hoạch
hành động thiết thực; đồng thời xác định trách nhiệm rõ ràng, kiểm tra, giám
sát chặt chẽ việc thực hiện, bảo đảm sự chuyển biến thực chất trong toàn hệ
thống.
Chúng ta muốn tiến nhanh, tiến vững chắc trong kỷ nguyên
mới, không có con đường nào khác ngoài con đường khoa học, công nghệ và đổi mới
sáng tạo. Chúng ta phải quyết tâm cao hơn, hành động mạnh mẽ hơn, sáng tạo bứt
phá hơn, biến khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo thực sự thành nền tảng và
động lực then chốt đưa đất nước vươn tới những tầm cao mới.
Thứ ba: Đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp
ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới
Trong bối cảnh đất nước đang bước vào giai đoạn phát triển
mới với yêu cầu cao về hiện đại hóa, và hội nhập quốc tế sâu rộng, việc xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật trở thành yếu tố sống còn, quyết định sự
thành công của quá trình vươn mình của dân tộc. Nghị quyết 66 ra
đời trong bối cảnh đó, đã xác định rõ: Đổi mới căn bản công tác xây dựng và thi
hành pháp luật là nội dung cốt lõi, nền tảng cho tiến trình xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới.
Nghị quyết khẳng định, pháp luật không chỉ đơn thuần là công
cụ điều chỉnh hành vi xã hội, mà phải được xem là cơ sở tổ chức, vận hành quyền
lực nhà nước, là nền tảng vững chắc để bảo vệ quyền con người, quyền công dân,
và là đòn bẩy thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội.
Về quan điểm chỉ đạo, Nghị quyết nhấn mạnh công tác xây dựng
và thi hành pháp luật phải trở thành nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên của toàn
Đảng, toàn hệ thống chính trị, gắn liền mật thiết với yêu cầu phát triển nhanh,
bền vững đất nước. Đồng thời, pháp luật phải đồng bộ, khả thi, minh bạch, ổn
định, lấy thực tiễn phát triển làm thước đo, đồng thời có tính dự báo cao, chủ
động dẫn dắt sự phát triển chứ không chỉ chạy theo điều chỉnh.
Trên quan điểm đó, 3 nhiệm vụ trọng tâm đặt ra là: (1) Hoàn
thiện thể chế trong các lĩnh vực then chốt như tổ chức bộ máy nhà nước
tinh gọn, hiệu quả; phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
bảo vệ quyền con người; xây dựng môi trường đầu tư kinh doanh lành mạnh, cạnh
tranh; (2) Đổi mới quy trình xây dựng pháp luật theo hướng chủ
động, kiến tạo, bảo đảm pháp luật thống nhất, đồng bộ, cụ thể, dễ hiểu, dễ thực
thi; (3) Nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật, tăng cường kỷ luật,
kỷ cương trong tổ chức thực thi, gắn quyền lực với trách nhiệm giải trình.
Thể chế pháp luật là động lực, là nền tảng cho phát triển
đất nước. Một hệ thống pháp luật đồng bộ,
khả thi, minh bạch sẽ tạo ra môi trường ổn định cho sản xuất, kinh doanh, thúc
đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao năng lực hội nhập quốc tế và loại bỏ triệt để
các rào cản do pháp luật chồng chéo, mâu thuẫn gây ra. Với yêu cầu đó, tinh
thần cải cách được đặt ra, đó là: Đổi mới căn bản tư duy xây dựng pháp
luật: chuyển từ tư duy "quản lý" sang "phục vụ", từ bị
động sang chủ động, kiến tạo sự phát triển; Xây dựng pháp luật phải đi
trước một bước, bảo đảm tính dự báo cao, phù hợp với thực tiễn và yêu cầu
của sự phát triển nhanh chóng; Thi hành pháp luật phải nghiêm minh,
công bằng, thực chất, chuyển đổi số phải gắn liền với công khai, minh bạch,
thuận tiện hóa tối đa cho người dân và doanh nghiệp; Phân cấp, phân
quyền rõ ràng, gắn với trách nhiệm giải trình, xóa bỏ cơ chế "xin –
cho", triệt tiêu các lợi ích cục bộ và đặc quyền nhóm.
Nghị quyết 66 chính
là lời hiệu triệu cho một cuộc cải cách thể chế sâu sắc, nhằm xây dựng một hệ thống
pháp luật hiện đại, thực chất, vì nhân dân phục vụ, đồng thời tạo ra động lực
bền vững cho công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng
và văn minh trong thế kỷ XXI.
Thứ tư: Hội nhập quốc tế trong tình hình mới
Nghị quyết 59 của
Bộ Chính trị được ban hành trong bối cảnh quốc tế biến động nhanh, phức tạp,
cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn gia tăng, xu thế đa cực, đa trung tâm
rõ nét, cùng với những thách thức toàn cầu như biến đổi khí hậu, dịch bệnh, an
ninh phi truyền thống. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chuyển đổi số và
kinh tế xanh cũng đang làm thay đổi sâu sắc mô hình phát triển toàn cầu.
Sự ra đời của Nghị quyết 59 là quyết sách
đột phá, đánh dấu bước ngoặt lịch sử trong tiến trình hội nhập quốc tế của đất
nước, xác định hội nhập là động lực chiến lược để Việt Nam vững bước vào kỷ
nguyên mới. Nghị quyết thể hiện tầm nhìn sâu sắc: hội nhập quốc tế không chỉ là
mở cửa, giao lưu, mà là một sự nghiệp tổng hợp, đòi hỏi sự chủ động, tích cực
và rất có bản lĩnh.
Quan điểm xuyên suốt của Nghị quyết là: Hội nhập
quốc tế là sự nghiệp của toàn dân tộc, dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp và
toàn diện của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước, lấy người dân và doanh
nghiệp làm trung tâm, làm chủ thể sáng tạo.
Chúng ta phải nhận thức sâu sắc rằng hội nhập không chỉ là
nhiệm vụ của các cơ quan đối ngoại, không chỉ là hoạt động đối ngoại nhà nước,
mà là một quá trình tổng hợp, yêu cầu sự tham gia chủ động, tích cực, sáng tạo
của toàn hệ thống chính trị, của từng người dân, từng doanh nghiệp, từng ngành
nghề, từng lĩnh vực.
Nội lực, bao gồm sức mạnh của nền kinh tế, văn hóa, thể chế,
nguồn nhân lực, phải được đặt ở vị trí quyết định; ngoại lực chỉ là nguồn bổ
sung, hỗ trợ quá trình phát triển, bảo đảm hội nhập toàn diện, sâu rộng mà vẫn
giữ vững độc lập tự chủ, nâng cao năng lực tự cường và khả năng thích ứng trước
mọi biến động toàn cầu.
Nghị quyết đề ra những định hướng chiến lược toàn diện và
sâu sắc như: Về kinh tế: Đẩy mạnh hội nhập gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập,
tự chủ, hiện đại; phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn; nâng
cao năng lực cạnh tranh dựa trên khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Về
chính trị, quốc phòng, an ninh: Hội nhập đi đôi với củng cố quan hệ đối tác
chiến lược, đối tác toàn diện, tăng cường tin cậy chính trị, giữ vững độc lập,
chủ quyền và môi trường hòa bình, ổn định cho đất nước. Về khoa học công nghệ,
giáo dục, y tế, môi trường: Tận dụng hội nhập để nâng cao trình độ quốc gia,
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và hội nhập sâu vào chuỗi giá trị toàn
cầu.
Một nội dung đặc biệt quan trọng, có tính nền tảng trong
Nghị quyết là xây dựng đội ngũ cán bộ hội nhập quốc tế vững mạnh. Chúng ta phải
tập trung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, chuyên môn
sâu rộng, khả năng thích ứng linh hoạt với môi trường toàn cầu và kỹ năng phối
hợp liên ngành, đáp ứng yêu cầu hội nhập ngày càng sâu rộng, phức tạp.
Hội nhập quốc tế trong tình hình mới đòi hỏi chúng ta phải
chủ động hơn, quyết liệt hơn, sáng tạo hơn, trên nền tảng kiên định độc lập, tự
chủ, đồng thời linh hoạt, nhạy bén trong chiến lược và sách lược đối ngoại, tận
dụng tối đa cơ hội, vượt qua thách thức để đưa đất nước phát triển nhanh, bền
vững.
Có thể xem Nghị quyết 59 là kim chỉ nam
hành động cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta trong công cuộc hội nhập quốc
tế kỷ nguyên mới.
Mỗi cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên phải quán triệt
sâu sắc tinh thần Nghị quyết, cụ thể hóa thành chương trình, kế hoạch hành động
thiết thực; đồng thời phát huy cao độ tinh thần trách nhiệm, đổi mới tư duy,
bứt phá trong hành động, quyết tâm đưa hội nhập quốc tế trở thành động lực mạnh
mẽ đưa Việt Nam vươn cao, vươn xa trên trường quốc tế.
Thưa các đồng chí,
Bốn nghị quyết lớn của Bộ Chính trị đã cùng tạo nên một chỉnh thể thống nhất về tư duy và hành
động chiến lược cho sự phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Mặc dù mỗi nghị
quyết tập trung vào một lĩnh vực trọng yếu, chúng liên kết chặt chẽ, bổ sung và
thúc đẩy lẫn nhau trong quá trình quán triệt và tổ chức thực hiện.
Cả bốn nghị quyết đều thống nhất mục tiêu: xây dựng nền tảng
vững chắc để Việt Nam phát triển nhanh, bền vững và trở thành quốc gia phát
triển, thu nhập cao vào năm 2045. Nghị quyết 66 yêu cầu hoàn
thiện thể chế pháp luật minh bạch, hiện đại, bảo đảm quyền con người và quyền
công dân. Nghị quyết 57 xác định khoa học, công nghệ, đổi mới
sáng tạo và chuyển đổi số là trụ cột tăng trưởng mới. Nghị quyết 59 mở
rộng không gian phát triển thông qua hội nhập quốc tế chủ động, tích cực. Nghị
quyết 68 thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân trở thành động lực trung tâm
cho nền kinh tế.
Sự liên kết này không chỉ mang tính định hướng chung mà còn
thể hiện rõ sự phụ thuộc lẫn nhau trong thực tiễn. Nếu thể chế không minh bạch
(Nghị quyết 66), thì kinh tế tư nhân khó phát triển (Nghị quyết 68), khoa học
công nghệ thiếu môi trường sáng tạo (Nghị quyết 57) và hội nhập quốc tế thiếu
hiệu quả. Doanh nghiệp tư nhân đánh giá và tham gia như thế nào về các hiệp
định FTA, Hiệp định bảo hộ đầu tư... (Nghị quyết 59). Ngược lại, nếu đổi mới
sáng tạo không đột phá, kinh tế tư nhân sẽ yếu, hội nhập quốc tế sẽ bị hạn chế.
Nếu hội nhập không chủ động, bản thân thể chế và các động lực trong nước cũng
khó cải cách toàn diện.
Điểm đột phá chung của cả bốn nghị quyết là tư duy phát
triển mới: từ "quản lý" sang "phục vụ", từ "bảo
hộ" sang "cạnh tranh sáng tạo", từ "hội nhập bị động"
sang "hội nhập chủ động", từ "cải cách phân tán" sang
"đột phá toàn diện, đồng bộ và sâu sắc". Đây là bước chuyển tư duy
căn bản, kế thừa thành tựu đổi mới 40 năm qua và phù hợp với xu thế toàn cầu
trong kỷ nguyên số.
Về tổ chức thực hiện, tất cả các nghị quyết đều nhấn mạnh
vai trò lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự vào cuộc đồng bộ, sáng tạo của cả hệ
thống chính trị, cùng sự tham gia thực chất của doanh nghiệp, người dân và giới
trí thức. Các trục triển khai như thi hành pháp luật, chuyển đổi số, đổi mới
sáng tạo, phát triển tư nhân và hội nhập quốc tế đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ,
kiểm tra, giám sát thường xuyên và đánh giá hiệu quả.
Bốn nhiệm vụ trọng tâm trong 5 năm tới (2025–2030)
1) Hoàn thiện thể chế pháp luật hiện đại, đồng bộ, thúc đẩy
phát triển: Trong 5 năm tới, triển khai
toàn diện Nghị quyết 66, cải cách mạnh mẽ quy trình xây dựng, thi hành và đánh
giá pháp luật. Mục tiêu: xây dựng hệ thống pháp luật thống nhất, minh bạch, ổn
định, dễ tiếp cận, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội
nhập sâu rộng. Khắc phục pháp luật chồng chéo, đồng thời hoàn thiện thể chế bảo
vệ quyền sở hữu tài sản, quyền tự do kinh doanh, quyền đổi mới sáng tạo, tạo nền
tảng pháp lý thuận lợi cho đầu tư và phát triển.
2) Đột phá trong khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và
chuyển đổi số: Giai đoạn 2025–2030 phải tạo
đột phá mạnh mẽ thông qua triển khai quyết liệt các chương trình quốc gia về
đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, lan tỏa tới doanh nghiệp và địa phương. Hình
thành hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia; hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư
R&D, thương mại hóa công nghệ; xây dựng hạ tầng dữ liệu và nền tảng số cho
chính phủ số, kinh tế số, xã hội số. Đây là nền tảng kỹ thuật quyết định bứt
phá năng suất lao động và năng lực cạnh tranh quốc gia.
3) Tăng tốc hội nhập quốc tế toàn diện, chủ động, hiệu quả: Chủ động đàm phán, thực thi hiệu quả các FTA thế hệ
mới, tận dụng cơ hội từ chuỗi cung ứng toàn cầu và dòng vốn đầu tư quốc tế.
Chuyển hóa cam kết hội nhập thành tăng trưởng thực tế, mở rộng thị trường, thu
hút đầu tư chất lượng cao. Đồng thời, tham gia xây dựng và định hình luật chơi
quốc tế trong các lĩnh vực kinh tế, công nghệ, môi trường, an ninh mạng, qua đó
khẳng định vị thế và bảo vệ lợi ích quốc gia.
4) Phát triển khu vực kinh tế tư nhân thực chất, trở thành
"một động lực quan trọng nhất" của nền kinh tế quốc gia: Tập trung tháo gỡ điểm nghẽn về đất đai, tín dụng,
công nghệ, thị trường; hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp
sáng tạo; hình thành hệ sinh thái doanh nghiệp linh hoạt, năng động. Xây dựng
chiến lược phát triển các tập đoàn tư nhân lớn có năng lực cạnh tranh khu vực,
quốc tế, dẫn dắt chuỗi giá trị toàn cầu. Trọng tâm: bảo vệ quyền sở hữu tài
sản, quyền tự do kinh doanh, cải thiện môi trường kinh doanh minh bạch, công
khai, tạo động lực thúc đẩy khu vực tư nhân phát triển nhanh, bền vững.
Những nhiệm vụ cấp bách trong năm 2025
Thưa các đồng chí,
Năm 2025 là năm bản lề mở ra kỷ nguyên mới, trong khi mục
tiêu trở thành quốc gia phát triển chỉ còn hai thập niên phía trước. Nếu không
bắt kịp nhịp độ cải cách, không tạo đột phá ngay từ bây giờ, chúng ta sẽ lỡ mất
cơ hội vàng và tụt lại trong cuộc đua toàn cầu. Vì vậy, cần triển khai các
nhiệm vụ một cách nhanh chóng, bài bản, thực chất, lấy hiệu quả thực tế làm
tiêu chí đánh giá. Trên tinh thần đó, tôi đề nghị toàn hệ thống chính trị khẩn
trương thực hiện 8 nhiệm vụ trọng tâm sau:
Thứ nhất, nhanh
chóng hoàn thiện và ban hành các chương trình, kế hoạch hành động quốc gia thực
hiện 4 nghị quyết, bảo đảm gắn kết chặt chẽ, xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ, lộ
trình và phân công cụ thể. Đồng thời, lập bộ chỉ số theo dõi, đánh giá định kỳ.
Thứ hai, khẩn
trương rà soát toàn diện hệ thống pháp luật, triển khai sửa đổi, bổ sung, thay
thế hoặc bãi bỏ các quy định bất cập theo tinh thần Nghị quyết 66-NQ/TW. Ưu
tiên sửa đổi các quy định liên quan đến quyền sở hữu tài sản, tự do kinh doanh,
đổi mới sáng tạo và hội nhập quốc tế; nghiên cứu ban hành Luật Phát triển kinh
tế tư nhân.
Thứ ba, khởi động
ngay các chương trình trọng điểm về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và
chuyển đổi số; phê duyệt, triển khai các chương trình quốc gia; hình thành thêm
các trung tâm đổi mới sáng tạo mới; xây dựng khung pháp lý cho mô hình sandbox.
Thứ tư, tập trung
đàm phán, thực thi hiệu quả các FTA thế hệ mới, nhất là CPTPP, EVFTA, RCEP,
UKVFTA và đặc biệt là đàm phán hiệu qủa FTA với Hoa Kỳ; chủ động chuẩn bị tham
gia các hiệp định mới như Hiệp định đối tác kinh tế số (DEPA), Khuôn khổ kinh
tế Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương (IPEF); tận dụng cam kết hội nhập để chuyển
hóa thành tăng trưởng thực tế.
Thứ năm, thực hiện
đột phá trong cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh: cắt giảm ít nhất 30% thủ
tục hành chính, số hóa dịch vụ công, hỗ trợ vốn, công nghệ, chuyển đổi số cho
doanh nghiệp nhỏ và vừa; xây dựng đề án phát triển tập đoàn tư nhân lớn.
Thứ sáu, kiện toàn
bộ máy lãnh đạo, chỉ đạo, phối hợp thực hiện các nghị quyết; thành lập các Ban
chỉ đạo chuyên trách cấp trung ương và cấp tỉnh; bảo đảm cơ chế chỉ đạo thống
nhất, kiểm tra, giám sát thường xuyên.
Thứ bảy, ưu tiên
đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực để triển khai nghị quyết: đào tạo chuyên sâu
về pháp luật hiện đại, khoa học công nghệ, hội nhập quốc tế và quản trị doanh
nghiệp; bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trẻ có tư duy đổi mới, năng lực số và khả năng
thích ứng toàn cầu.
Thứ tám, đẩy mạnh
truyền thông, tạo đồng thuận xã hội: xây dựng các chương trình truyền thông
quốc gia về từng nghị quyết; tăng cường đối thoại chính sách giữa Chính phủ,
doanh nghiệp, người dân và giới trí thức, huy động trí tuệ xã hội cho quá trình
triển khai.
Thưa các đồng chí,
Hơn bao giờ bao giờ hết, hiện nay, Ban chấp hành Trung ương
là một khối đoàn kết, thống nhất, quyết tâm, quyết liệt lãnh đạo toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân ta thực hiện đạt và vượt các chỉ tiêu mà Nghị quyết Đại hội
Đảng lần thứ XIII đã đề ra, chuẩn bị thật tốt để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên
phát triển, phồn vinh và hạnh phúc. Kể từ Hội nghị Trung ương X khóa XIII
(9/2024) đến nay, Bộ Chính Trị, Ban Bí thư đã làm việc ngày đêm tập trung giải
quyết nhiều vấn đề cốt lõi, tháo gỡ những "điểm nghẽn", tạo không
gian phát triển mới cho đất nước. Triển khai quyết liệt nội dung Nghị quyết 18
của Ban chấp hành Trung ương về "một số vấn đề tiếp tục đổi mới, sắp xếp
tổ chức của bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực hiệu
quả"; xây dựng chính quyền địa phương hai cấp; sắp xếp lại đơn vị hành
chính để "cất cánh"... những công việc nêu trên không chỉ được cán
bộ, đảng viên nghiên túc triển khai mà điều quan trọng hơn là hầu hết nhân dân
trong cả nước theo dõi, đồng tình, ủng hộ, coi đây thực sự là cuộc cách mạng
của đất nước trong thời kỳ mới.
Để hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh,
hùng cường, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân phải tiếp tục đồng lòng, chung
sức, phát huy cao độ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường và khát vọng
vươn lên mạnh mẽ của dân tộc Việt Nam trong kỷ nguyên mới. Vì"biết đồng
sức, biết đồng lòng/ việc gì khó, làm cũng xong".
Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải xác định rõ vai trò, trách nhiệm của mình; chủ
động, sáng tạo, đoàn kết thi đua yêu nước, quyết tâm thực hiện thắng lợi các
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống
nhân dân, làm cho nhân dân có đời sống thực sự ngày một tốt hơn. Mỗi cán bộ,
đảng viên, mỗi người dân Việt Nam phải trở thành chiến sĩ tiên phong trên mặt
trận phát triển đất nước.
Lãnh đạo các cấp, từ Trung ương đến địa phương, phải gương mẫu, tiên phong trong đổi mới tư duy và hành
động; dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích quốc gia,
thậm chí dám hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích chung. Các chương trình hành động
phải được triển khai quyết liệt, bài bản, lấy hiệu quả thực tế làm thước đo
năng lực và kết quả công tác. Tiếp tục kiến nghị, đề xuất để xây dựng những
Nghị quyết mới theo phương châm "Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu
quyền hạn đều của dân" như Bác Hồ từng dạy.
Người dân và doanh nghiệp phải
được xác định là trung tâm và chủ thể sáng tạo trong phát triển. Cần bồi đắp
mạnh mẽ tinh thần khởi nghiệp quốc gia, khơi dậy nguồn lực đổi mới sáng tạo
trong toàn xã hội, phát triển kinh tế số, kinh tế tri thức, kinh tế xanh, kinh
tế tuần hoàn, đưa Việt Nam tiến nhanh, tiến mạnh trên con đường hiện đại hóa,
hội nhập.
Thưa các đồng chí,
Chúng ta có đầy đủ cơ sở để tin tưởng vững chắc vào một
tương lai tươi sáng của đất nước. Với truyền thống anh hùng, trí tuệ, bản lĩnh
và khát vọng vươn lên không ngừng của toàn dân tộc, Việt Nam sẽ tiếp tục tiến
bước vững chắc trên con đường phát triển nhanh và bền vững.
Trước nhân dân cả nước, chúng ta cam kết thực hiện mạnh mẽ
các mục tiêu đã đề ra, bằng tinh thần đổi mới tư duy, hành động quyết liệt,
kiên trì và sáng tạo. Mỗi cấp ủy, chính quyền, tổ chức, cá nhân cần xác định rõ
trách nhiệm của mình, biến cam kết chính trị thành kết quả cụ thể, thiết thực.
Hãy cùng nhau thắp lên ngọn lửa Đổi mới – Khát vọng – Hành
động, vì một Việt Nam giàu mạnh, phồn vinh, hùng cường, sánh vai với các cường
quốc năm châu vào năm 2045.
Trân trọng cảm ơn các đồng chí!
Nguồn: https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/