Xuất khẩu thịt heo của Việt Nam còn nhiều khó khăn
16/09/2022 - 15:59 | Giá cả, thông tin thị trường
Năm 2017, Việt Nam lần đầu tiên có doanh nghiệp (DN) đầu tư khép kín từ
chăn nuôi đến giết mổ đến xuất khẩu thịt gà chính ngạch sang Nhật Bản. Đó cũng
là lúc “giấc mơ” xuất khẩu thịt heo được không ít nhà chăn nuôi ấp ủ, lên kế
hoạch. Vào
tháng 6 năm 2018, lần đầu tiên Việt Nam có doanh nghiệp xuất khẩu thịt heo sống
(dạng xẻ mảnh và cấp đông) sang Myanmar và xuất theo đường chính ngạch đã mở ra
một hướng đi đầy triển vọng cho ngành chăn nuôi heo nói riêng và ngành chăn
nuôi nói chung. Thế nhưng từ số liệu của Bộ NN-PTNT đến thực tế của các
doanh nghiệp đều cho thấy có rất nhiều trở ngại. Cái khó lớn nhất chính là chi
phí sản xuất của Việt Nam quá cao, không thể cạnh tranh với thịt từ các nguồn
cung khác.
Năm 2019, giá thành chăn nuôi bình quân của Việt Nam khoảng 50.000
đồng/kg (các trang trại lớn tự chủ được nhiều khâu giá thành khoảng 45.000 -
48.000 đồng/kg) trong khi giá thành chăn nuôi heo tại châu Âu chỉ khoảng 35.000
đồng/kg; châu Mỹ (Mỹ, Brazil) chưa tới 25.000 đồng/kg. Nếu so với các nước
trong khu vực như Thái Lan và Trung Quốc thì giá thành của Việt Nam cũng cao
hơn. Hiện nay do, chi phí đầu vào tăng cao, giá thành chăn nuôi bình quân lên
tới 55.000 - 56.000 đồng/kg. Có được mức giá cạnh tranh vì các cường quốc về
chăn nuôi như Mỹ và Brazil vẫn nắm lợi thế trong việc tự chủ nguồn nguyên liệu
thức ăn chăn nuôi. Còn ngành chăn nuôi Việt Nam vẫn đang phụ thuộc tới 80%
nguồn nguyên liệu thức ăn chăn nuôi nhập khẩu với hai sản phẩm chính là bắp và
đậu nành, chiếm từ 65 - 70% cơ cấu thành phần.
Bên cạnh giá thành sản xuất, việc xuất khẩu sản phẩm thịt heo còn đòi
hỏi đáp ứng nhiều tiêu chuẩn kỹ thuật khắt khe khác. Cụ thể như heo đông lạnh
phải được nuôi, giết mổ trong chuỗi khép kín. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp lớn
đã đầu tư và đáp ứng được các tiêu chuẩn. Tuy nhiên, một tiêu chuẩn khác mà bản
thân doanh nghiệp khó đáp ứng là trang trại phải được đặt trong khu vực an toàn
dịch bệnh và được Tổ chức Thú y quốc tế (OIE) công nhận. Điều này dẫn đến khó
khăn cho các trang trại vì các trang trại của công ty đều đạt tiêu chuẩn an
toàn dịch bệnh, nhưng những trang trại nhỏ lẻ xung quanh không đạt tiêu chuẩn
khiến công ty bị ảnh hưởng. Về lâu dài cần có nhiều cơ chế thu hút các doanh
nghiệp lớn chăn nuôi chuyên nghiệp như quy hoạch vùng nuôi để nâng dần tỷ trọng
nhóm này lên và giải bài toán vùng chăn nuôi an toàn dịch bệnh. Đây cũng là yêu
cầu chung của nhiều doanh nghiệp khác trong ngành.
Xuất khẩu theo con đường chính ngạch
sang Trung Quốc
Mặc dù
xuất khẩu tiểu ngạch đã đạt kim ngạch lớn, thế nhưng Việt Nam vẫn chưa thể xuất
khẩu chính ngạch heo và thịt heo sang Trung Quốc. Câu hỏi đặt ra, một thị
trường tiềm năng lớn như vậy vì sao chăn nuôi Việt Nam lại chưa thành công?
Ai cũng
biết, giữa Việt Nam và Trung Quốc vẫn chưa có bất cứ ký kết chính thức nào về
xuất nhập khẩu hàng hóa là động vật hoặc có nguồn gốc động vật. Do vậy, từ
trước đến nay, xuất khẩu heo của Việt Nam sang Trung Quốc hoàn toàn qua đường
tiểu ngạch.
Năm
ngoái, sau khi đoàn công tác của Bộ NN&PTNT sang làm việc với lãnh đạo Bộ
Nông nghiệp Trung Quốc bàn về việc xuất khẩu chính ngạch thịt heo Việt Nam sang
thị trường này, nhiều ý kiến cho rằng, Trung Quốc đã có chủ trương đồng ý mở
cửa cho heo Việt Nam. Về thủ tục, nước bạn yêu cầu các cơ quan chuyên môn của
Việt Nam sớm rà soát và xử lý các vấn đề kỹ thuật liên quan tới quản lý, kiểm
soát dịch bệnh để phía Trung Quốc có căn cứ dỡ bỏ lệnh cấm. Sau đó, hai bên sẽ
từng bước có những buổi tiếp xúc, đàm phán cụ thể hơn để tiến tới ký kết xuất
khẩu chính ngạch. Vậy nhưng đến nay, mọi chuyện vẫn nằm trong tiềm năng.
Các
doanh nghiệp muốn xuất heo theo đường chính ngạch sang thị trường Trung Quốc
phải đáp ứng các tiêu chuẩn cơ bản sau đây
Yêu cầu về kỹ thuật: Thịt heo cắt
lạnh đông xuất khẩu phải sản xuất theo đúng qui trình công nghệ đã được cơ quan
có thẩm quyền phê duyệt.
Nguyên liệu: Thịt heo cắt lạnh đông
được chế biến từ lợn thịt, nhiều máu ngoại, lợn ngoại, có độ tuổi từ 6 đến 8
tháng, khối lượng hơi phải đạt từ 80 – 110 kg và đạt yêu cầu vệ sinh thú y theo
qui định của Pháp lệnh Thú Y. Không sử dụng những con heo bị bệnh ngoài da, dị
dạng, bầm dập, gẫy chân. Việc vận chuyển heo phải đảm bảo vệ sinh thú y, nhẹ
nhàng. Xe vận chuyển lợn phải thoáng mát. Không vận chuyển lợn vào thời
gian nắng nóng. Chuồng nhốt heo chờ giết mổ phải thoáng mát, nền chuồng không
trơn, đảm bảo vệ sinh thú y. Không nhốt lợn quá mật độ qui định. Heo trước khi
đưa vào giết mổ phải nghỉ ngơi, nhịn ăn 24 giờ, cho uống nước sạch hoặc nước muối (NaCl) nồng độ 1% và phải
được tắm sạch.
Bán thành phẩm (heo mảnh nửa con): heo
mảnh nửa con dùng để chế biến thịt heo cắt lạnh đông phải đảm bảo các yêu cầu
sau:
Đầu được cắt bỏ ngang đốt sống cổ số
một (đốt Atlas), không có cẳng chân, đuôi,
lá mỡ, nội tạng; Mảnh được xẻ dọc chính giữa xương sống, để nguyên cơ
hoành và thăn nội; Sạch lông, không bầm dập, tụ máu và có tạp chất lạ; Khối
lượng tịnh mỗi mảnh không nhỏ hơn 25kg; heo mảnh ở dạng tươi hoặc được làm mát
ở nhiệt độ 0°C – 4°C, thời gian không
quá 48 giờ; Không sử dụng thịt heo mảnh đã qua lạnh đông.
Yêu cầu về thành phẩm: Từ mảnh nửa
con ở được phân làm ba phần. Mỗi phần được xác định như sau: Phần trước: Từ đốt
sống cổ số một đến đốt sống giữa xương sườn số 4 và số 5 theo đường cắt vuông
góc với đường sống lưng. Phần giữa: Tiếp giáp phần trước đến giáp với đường cắt
vuông góc với đốt xương sống cùng theo chiều dài thân thịt. Phần sau: Là phần
còn lại và kèm theo thăn nội (thăn chuột). Từ mỗi
phần thịt được pha lọc bỏ xương, da, bớt mỡ hoặc không bỏ xương, da, mỡ thu
được các dạng sản phẩm thịt xuất khẩu như sau:
Phần trước
thu được: Thịt cổ vai
(Thịt vai), Thịt đùi trước
Phần giữa
thu được: Thịt thăn, Thịt
bụng (thịt ba chỉ)
Phần sau thu
được: Thịt đùi sau
(thịt mông)
Yêu cầu về
cách đóng gói:
Bao bì: Màng
mỏng PE (pôlyêtylen) và bao PP (pôlyprôpylen). Thùng carton và đai
nẹp nhựa thực hiện theo quy định.
Đóng gói: Mỗi mảnh
thịt được gói kín, gọn, đẹp trong màng mỏng PE. Các gói thịt cùng loại sau khi
đã được cấp đông, đóng trong túi PE, đựng trong thùng carton hoặc bao PP. Trong
mỗi thùng carton hoặc bao PP phải có dấu kiểm soát giết mổ của Thú y. Khối
lượng tịnh của thịt lợn cắt trong mỗi thùng carton hoặc mỗi bao PP theo sự thỏa
thuận giữ người mua và người bán. Thùng carton phải đai nẹp chắc chắn bằng hai
đai ngang và hai đai dọc, bao PP được khâu kín đảm bảo chắc chắn trong quá
trình vận tải.
Yêu cầu về
cách ghi nhãn: Nhãn
hiệu trên bao bì phải rõ ràng, không phai, nhoè, bằng loại mực có độ bám dính
tốt ở nhiệt độ -18°C đến -22°C và không có mùi làm ảnh hưởng đến chất
lượng sản phẩm.
Yêu cầu về
cách bảo quản:
Thịt lợn cắt
lạnh đông được bảo quản trong kho lạnh chuyên dùng, không có mùi lạ và bảo đảm
vệ sinh để chứa hàng thực phẩm. Nhiệt độ của kho lạnh trong khi bảo quản thịt
lợn cắt phải đạt từ – 18°C đến – 22°C
Hàng xếp
trong kho phải có bục kê cách mặt sàn kho 0,3m, cách tường 0,5m, cách dàn lạnh
0,5m, cách trần 0,7m, có hàng lối để không khí lạnh lưu thông và tiếp xúc đều
với sản phẩm
Thời gian
bảo quản thịt lợn cắt lạnh đông không quá 18 tháng kể từ ngày sản xuất.
Yêu cầu về
phương tiện vận tải:
Thịt lợn cắt
lạnh đông phải được vận tải bằng xe lạnh, container lạnh hoặc tàu lạnh chuyên
dùng. Phương tiện vận tải không được có mùi lạ và bảo đảm vệ sinh chứa hàng
thực phẩm.
Nhiệt độ phòng lạnh của xe, container lạnh, hầm lạnh của tàu trong quá trình vận tải mặt hàng thịt lợn cắt phải đạt từ – 18°C đến – 22°C.
Hạnh Nguyễn – Chi cục Chăn nuôi và Thú y