Xây dựng và phát triển các vùng nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
15/12/2021 - 10:18 | Giá cả, thông tin thị trường
Nhu cầu
nguyên liệu thức ăn chăn nuôi và thực trạng nguồn nguyên liệu thức ăn chăn nuôi của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
Ước tính đến cuối năm 2021 thì số lượng tổng đàn vật nuôi
trên địa bàn tỉnh là 52.474 con trâu, bò/13.598 hộ, cơ sở chăn nuôi; 370.050
con heo/10.227 hộ, cơ sở chăn nuôi heo; 6.303.200 con gia cầm (gà, vịt,
ngan)/57.174 hộ, cơ sở chăn nuôi; 92.000 con dê, cừu/10.425 hộ chăn nuôi. Với số
lượng tổng đàn vật nuôi như hiện này thì nhu cầu thức ăn chăn nuôi ước tỉnh khoảng
0,98 triệu tấn/năm.
Nguồn nguyên liệu thức ăn chăn nuôi mà tỉnh
Bà Rịa – Vũng Tàu cung ứng hiện nay chủ yếu là phụ phẩm từ cây lúa, bắp, khoai
mì. Theo số liệu của Chi cục Trồng Trọt và BVTV thì trong năm 2021, tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm trên toàn tỉnh đạt khoảng
57.339 ha, trong đó diện tích và sản lượng các loại cây hàng năm chính: Lúa
25.236 ha, sản lượng 144.288 tấn, tăng 10,17% so năm 2020; khoai mì 7.440 ha, sản
lượng 188.406 tấn, tăng 0,83%; bắp 9.188 ha, sản lượng 48.939 tấn, bằng 96,2%;
rau đậu các loại 9.327 ha, sản lượng 141.841 tấn, tăng 3,69%, ... đồng thời
trong năm 2021 đã thực hiện chuyển đổi 366,3 ha đất
sản xuất trồng trọt kém hiệu quả (trong
đó: có 180 ha đất lúa) sang các loại cây
trồng khác rau, bắp, dưa hấu, đậu các loại, ...
Thuận lợi để phát triển vùng trồng
nguyên liệu
Khí
hậu nhiệt đới, cận xích đạo với các ưu thế như: tổng lượng bức xạ cao và ổn
định, nhiệt độ bình quân cao đều quanh năm, tổng tích ôn lớn, số giờ nắng
nhiều, mưa nhiều, ít bão…Như vậy, có thể xem đây là một lợi thế cho phát triển
nông nghiệp theo hướng thâm canh, tăng vụ, xen canh, gối vụ, ứng dựng công nghệ
cao; đó là hướng phát triển của nền nông nghiệp chuyên canh, nông nghiệp dụng
công nghệ cao.
Quỹ
đất nông nghiệp còn khá; đặc biệt là hai chuyện Châu Đức và Xuyên Mộc, địa hình
bằng phẳng, trên 45% diện tích là đất phù sa và đất có nguồn gốc bazan; trên
70% diện tích đất có địa hình bằng phẳng, độ dốc cấp 3; trên 88% diện tích đất
có độ dày tầng canh tác lớn hơn 50 con với ưu điểm là thích nghi rộng, có khả
năng thích nghi với nhiều loại cây trồng.
Nguồn
nước và chế độ thủy văn: nguồn nước mặt khá lớn với 2 con sông chính là sông
Thị vải – Cái Mép, Sông Dinh và Sông Ray, do đó có thể xây dựng được nhiều công
trình thủy lợi cấp nước phục vụ cho sản xuất nông nghiệp.
Tỉnh ta là một trong
những tỉnh thực hiện khá tốt chủ trương của Chính Phủ về liên kết “ 4 nhà”
trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm và hiện tại đang thực hiện Quyết
định số 62/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính phủ về khuyến khích hợp tác, liên kết sản
xuất, gắn với tiêu thụ nông sản và xây dựng cánh đồng lớn.
Cây lúa và cây bắp đã hình thành bộ giống chất
lượng cao. Nhiều tiến bộ kỹ thuật đã được áp dụng và khá thành công trên cây
bắp làm cho năng suất cây bắp tăng đáng kể ( từ 4,04 tấn/ha năm 2005 lên 4,96
tấn/ha năm 2015); cá biệt có nơi tăng lên đến 6 – 7 tấn/ha. Do cây bắp lai được
trồng từ khá lâu năm nên người dân có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất bắp lai.
Đất có nguồn gốc bazan là điều kiện rất thuận lợi để phát triển cây bắp; trong
đó các xã Đá Bạc, Suối Rao, Láng Lớn là vùng sản xuất bắp tập trung với quy mô
lớn.
Cây khoai mì đã triển
khai trồng thử nghiệm và nhân rộng giống mới: giống khoai mì HL-S11 (do Trung
tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông
nghiệp miền Nam nhập về tuyển chọn và nhân giống). Qua thực tế cho thấy, giống
HL-S11cho năng suất cao và ổn định, chống chịu với các loại sâu bệnh phổ biến
như nhện đỏ, rệp sáp, chịu hạn và quan trọng là không bị bệnh chổi rồng (một loại
bệnh chưa có thuốc trị trên cây mì). Cùng với đó, HL-S11 có hàm lượng tinh bột
tới trên 30% trong khi các giống phổ biến đang trồng chỉ đạt 24-25%. Năng suất
tinh bột của HL-S11 đạt tới hơn 14 tấn/ha, trong khi các giống mì trồng trước
đó chỉ cho 10-12 tấn/ha, nhờ đó thu nhập từ trồng mì cũng tăng từ 20-30%.
Khó khăn
Do việc đô thị hóa và công nghiệp hóa nên quỹ đất sử dụng
vào mục đích phi nông nghiệp gia tăng đã và đang làm giảm diện tích đất sản
xuất nông nghiệp.
Khó khăn lớn nhất đối với đất đai ở tỉnh ta trong việc phát
triển nông nghiệp là có 18.967 ha thuộc nhóm đất đen mặc dù độ phì nhiêu khá
tốt song lại có tầng canh tác mỏng, kết hợp với điều kiện thiếu nguồn nước tưới
nên rất khó để chuyển đổi cây trồng một cách hợp lý và có hiệu quả kinh tế cao.
Mức độ cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp còn thấp do
quy mô đồng ruộng nhỏ, sản xuất trong tình trạng manh mún, chưa hình thành được
những cánh đồng lớn để thực hiện liên kết trong sản xuất.
Giá cả thị trường luôn biến động theo chiều hướng bất lợi
cho người sản xuất nông nghiệp: giá vật tư (phân bón, thuốc BVTV…) ngày càng
tăng, giá thuê nhân công làm nông nghiệp cũng tăng đáng kể, trong khi đó giá
sản phẩm nông nghiệp lại giảm hoặc không tăng kịp so với tốc độ tăng của các
yếu tố đầu vào.
Ảnh hưởng xấu của
biến đổi khí hậu toàn cầu và nước biển dâng luôn tiềm ẩn gây tổn thất rất khó
lường đối với ngành trồng trọt.
Phương hướng, Giải pháp
Cần điều chỉnh quy mô
diện tích và cơ cấu các cây trồng phục vụ nguyên liệu thức ăn chăn nuôi. Hướng
đến sản xuất theo mô hình tổ hợp tác, hợp tác xã, cùng lựa chọn doanh nghiệp
phù hợp tình hình chăn nuôi ở khu vực để mua chung đơn hàng, tiến tới mua trực
tiếp của các nhà máy để hưởng ưu đãi về giá, không phải qua trung gian. Cần
tiếp tục thực hiện chu trình khép kín "sản xuất - tiêu thụ" theo
chuỗi giá trị, chú trọng giảm chi phí, phòng chống dịch bệnh tốt, tận dụng
nguyên liệu sẵn có để giảm giá thành TACN, tăng khả năng cạnh tranh.
Xây dựng cánh đồng lớn,
phát triển hợp tác, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản giữa nông dân
và nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi để đảm báo đầu ra và giá bán ổn định cho
bà con nông dân khi chuyển đổi và tăng thêm diện tích cây trồng.
Ngân sách của tỉnh và các tổ chức tín dụng có
thể triển khai các hình thức tín dụng ưu đãi cho người chăn nuôi và doanh
nghiệp để đầu tư trực tiếp vào các hoạt động trồng trọt, tạo vùng nguyên liệu
thức ăn chăn nuôi đáp ứng yêu cầu có hiệu quả trên địa bàn tỉnh.
Hạnh Nguyễn