Thị trường khối CPTPP của thủy sản vẫn ổn định sau 5 năm
26/01/2024 - 09:55 | Giá cả, thông tin thị trường
Khi tham gia hiệp định CPTPP, tất cả các thành
viên đều cam kết xóa bỏ gần như toàn bộ biểu thuế quan nhập khẩu của nước mình.
Theo đó, đa số các dòng thuế nhập khẩu sẽ được đưa về 0% theo lộ trình từ 3-7
năm (trong một số trường hợp, lộ trình có thể dài hơn, từ trên 10 năm đến 20
năm).
Đối với Việt Nam, các nước CPTPP cam kết xóa bỏ
hoàn toàn từ 97% đến 100% số dòng thuế nhập khẩu đối với hàng hóa có xuất xứ từ
Việt Nam - tùy theo cam kết của từng nước. Việt Nam cũng xóa bỏ tới 86,5% số
dòng thuế sau 3 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực. Các mặt hàng còn lại có lộ
trình giảm thuế chủ yếu từ 5-10 năm. Theo các chuyên gia, CPTPP đã tạo ra cơ
hội rất lớn cho Việt Nam để tiếp cận thị trường mới, nhưng các doanh nghiệp cần
phải tăng tốc hơn nữa để chớp thời cơ trước khi các quốc gia tham gia Hiệp định
CPTPP mở cửa hội nhập rộng hơn.
Đánh giá về tác động của hiệp định CPTPP đối với
ngành thủy sản, bà Lê Hằng - Giám đốc truyền thông VASEP cho biết, 5 năm sau
khi CPTPP có hiệu lực, xuất khẩu thủy sản Việt Nam đã ghi nhận những thay đổi
rõ nét. Trong đó, sự gia tăng xuất khẩu vào các nước thành viên CPTPP mạnh mẽ
hơn so với các thị trường khác. Điển hình là Canada, Chile, Peru,
Singapore, Malaysia, Australia...
Việc tăng thị phần của thủy sản Việt Nam tại các
thị trường này cho thấy hiệu quả thâm nhập mạnh mẽ của thủy sản Việt Nam vào
các thị trường sau khi tham gia CPTPP. Tại Australia, tôm Việt Nam chiếm thị
phần áp đảo 70%, tăng gần gấp đôi so với 32% trước khi ký Hiệp định. Đối với
thị trường Canada, thị phần thủy sản Việt Nam đã tăng từ 7-8% lên 10%, trong đó
riêng tôm tăng từ 18% lên 25% và đứng số 1; cá ngừ cũng tăng từ 6% lên 11% và
đứng thứ 3. Canada là thị trường nhập khẩu cá ngừ lớn thứ 12 trên thế giới trong
năm 2022. Kim ngạch nhập khẩu của thị trường này đạt hơn 272 triệu USD, tăng
40% so với năm 2021. Với mức tăng trưởng này, Canada được đánh giá là thị
trường cá ngừ tiềm năng cho Việt Nam nhất là sau khi hiệp định CPTPP có hiệu
lực.
Sự thay đổi còn thể hiện ở xu hướng nhập
khẩu nguyên liệu thủy sản vào Việt Nam để gia công, chế biến xuất khẩu đi
các nước và cả tiêu thụ trong nước cũng gia tăng. Sản phẩm thủy sản Việt Nam
cũng đã nâng cao chất lượng, năng suất chế biến xuất khẩu nhờ những đầu tư, hợp
tác về công nghệ, kỹ thuật, ứng dụng khoa học kỹ thuật trong nuôi trồng, chế
biến và xuất khẩu thủy sản.
Bà Nguyễn Thị Phương Dung, Trưởng phòng Khoa học
Công nghệ Hợp tác Quốc tế, Cục Thủy sản (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn) nhận định, dưới góc độ cơ quan Quản lý Nhà nước thì hiệp định CPTPP là
“cú hích” để tái cơ cấu chuỗi sản xuất của toàn ngành thủy sản, từ việc tổ chức
sản xuất thủy sản bền vững gắn với chế biến, thương mại, phát triển thị trường,
đặc biệt là quan tâm đến vấn đề bảo vệ môi trường, thúc đẩy các hoạt động quản
lý Nhà nước chuyên ngành.
Dư địa thị trường Hiệp định
CPTPP còn rất lớn
Theo ông Ngô Chung Khanh - Phó Vụ trưởng Vụ
Chính sách thương mại đa biên, Bộ Công Thương: “Cơ hội thị trường CPTPP rất
lớn, tuy nhiên xuất khẩu thủy sản Việt Nam là một sản phẩm thế mạnh nhưng vẫn
chưa tận dụng hết thị phần tại CPTPP, kết quả còn khiêm tốn so với dung lượng
thị trường đang có”.
Nguyên nhân, ngoài các yếu tố khách quan, một
trong các lý do doanh nghiệp thủy sản Việt Nam chưa tận dụng hết dư địa thị
trường CPTPP là bởi nhiều doanh nghiệp chưa để ý, có chiến lược tiếp cận thị
trường hiệu quả, phù hợp; doanh nghiệp chủ yếu thiên về làm ăn truyền thống,
đơn giản, khai thác thị trường gần. Mặt khác, hầu hết các doanh nghiệp còn e
ngại các tiêu chuẩn phức tạp, hoặc không chủ động tiếp cận thông tin thị trường
ngay sau khi CPTPP đi vào thực thi. Điều này ảnh hưởng đến định hướng xuất khẩu
sang thị trường các thành viên CPTPP, nhất là cá thị trường tiềm năng như
Canada, Peru, Mexico; ông Khanh cho biết thêm.
Mới đây, vương quốc Anh đã ký hiệp ước tham gia
CPTPP, đó là một dấu mốc cho thấy có thế sẽ có thêm các thành viên khác tham
gia vào hiệp định này. Những thay đổi này cũng tạo thêm cơ hội cho thủy sản
Việt Nam trong việc thâm nhập thị trường và hòa nhập bằng việc đa dạng nguồn
nguyên liệu. Hiện nay, theo hiệp định song phương Việt Nam với Anh, thuế nhập
khẩu ưu đãi của các sản phẩm thủy sản chủ lực của Việt Nam vào Anh hầu hết về
0%. Tuy nhiên, còn một vài mã sản phẩm như tôm chế biến HS 160521 và 160529 vẫn
đang bị mức thuế 7%. Tất nhiên hai dòng sản phẩm này của Việt Nam đều đang
chiếm vị trí số 1 tại Anh, chi phối 36% thị phần, nhưng dư địa sẽ lớn hơn khi
tôm Việt Nam được hưởng ưu đãi thuế quan CPTPP. Ngoài ra, cơ hội cho việc đa
dạng nguồn nguyên liệu chế biến xuất khẩu trong nội khối CPTPP sẽ gia tăng. Bên
cạnh đó, Anh cũng là một đối tác cho các công ty Việt Nam trong hoạt động gia
công mặt hàng hải sản từ Anh, ví dụ như cá tuyết.
Để tận dụng hiệu quả hơn các
lợi ích từ CPTPP
Bà Lê Hằng đánh giá, bối cảnh 5 năm qua có nhiều
biến động và thách thức từ thị trường, từ các biến động địa chính trị và những
bất cập nội tại, phần nào làm giảm đi cơ hội tận dụng hiệu quả hơn những lợi
thế của hiệp định CPTPP.
Theo đó, từ góc độ thị trường, khả năng tăng sức
cạnh tranh không thể là tuyệt đối khi các nước đối thủ như Ecuador, Ấn Độ có
lợi thế về nguồn cung và giá cả và họ cũng có FTA (Hiệp định thương mại tự do)
với một số nước trong nhóm CPTPP. Về yếu tố khách quan, đó là những biến động
trên thế giới bảo gồm dịch Covid, xung đột Nga - Ukraine dẫn đến đứt gãy chuỗi
cung ứng, chi phí sản xuất tăng, thiếu nguyên liệu dẫn đến kịch bản hưởng lợi
từ CPTPP không được như mong đợi.
Ở góc độ nội tại, việc hiểu và tận dụng hiệu quả
ưu đãi thuế quan bằng việc sử dụng mẫu C/O phù hợp vẫn có bất cập đối với doanh
nghiệp khi không biết điều chỉnh linh hoạt mẫu nào cho từng thị trường để có
lợi hơn. Bên cạnh đó, vẫn có sự cạnh tranh tại chính thị trường nội địa khi
hàng thủy sản của các nước như Nhật Bản, Chile, Australia cũng phần nào làm mất
thị phần trên “chiếc bánh” tiêu thụ thủy sản trong nước.
Ngoài ra, việc phải thể chế hóa, cải cách môi
trường đầu tư bên cạnh những tác động tích cực cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu
cũng có những quy định được đặt ra còn khắt khe hơn so với yêu cầu từ hiệp định
hoặc từ thị trường. Đó là những quy định liên quan đến môi trường và lao động.
Việt Nam cần cải thiện vấn đề này theo hướng phát triển bền vững, nhưng cần có
lộ trình phù hợp với thực tiễn đất nước và có độ linh hoạt cho từng ngành, vì
mỗi ngành có một đặc thù riêng.
Một thách thức rất lớn làm giảm sức cạnh tranh
và khả năng tận dụng tối đa cơ hội thị trường, đó là logistics cho ngành thủy
sản không đáp ứng nhu cầu phát triển. Là một ngành định hướng xuất khẩu là chủ
lực và có những đặc thù về vệ sinh an toàn thực phẩm, chuỗi cung ứng thủy sản
phụ thuộc rất nhiều vào chuỗi logistic bao gồm: kho lạnh, vận tải, đặc biệt là
vận tải biển. Trong một thời gian dài, nhất là giai đoạn từ 2020 trở lại đây có
quá nhiều biến động lớn như dịch Covid, chiến tranh, xung đột Nga – Ukraine,
mới đây là vùng Trung Đông (căng thẳng Biển Đỏ), ngành thủy sản xuất khẩu bộc
lộ rõ điểm yếu và bất cập là phụ thuộc phần lớn vào hệ thống logistics của nước
ngoài: kể cả kho lạnh và vận tải biển. Câu chuyện căng thẳng Biển Đỏ hiện nay
lại một lần nữa bộc lộ sự thiếu hụt của ngành logistics Việt Nam, khi mà các
hãng tàu nước ngoài chi phối và độc quyền định giá và tăng giá cước cùng các
giá dịch vụ vận tải.
Trong bối cảnh khó khăn chung của tất cả thị
trường, thì các FTA nói chung và Hiệp định CPTPP càng được khẳng định vai trò,
vị trí của mình. Tận dụng các FTA, hỗ trợ doanh nghiệp ký kết đơn hàng mới;
tháo gỡ khó khăn, vướng mắc xuất khẩu là các hoạt động đang được các Bộ, ban,
ngành, Hiệp hội, doanh nghiệp đẩy mạnh triển khai thực hiện.
Thúy Nga