Phê duyệt Đề án phát triển nuôi trồng thuỷ sản trên biển đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045
09/11/2021 - 14:53 | Giá cả, thông tin thị trường
Mục tiêu chung của Đề án là phát triển nuôi biển trở thành một ngành sản xuất hàng hóa quy mô lớn, công nghiệp, đồng bộ, an toàn, hiệu quả, bền vững và bảo vệ môi trường sinh thái; tạo ra sản phẩm có thương hiệu, đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu, giải quyết việc làm, cải thiện điều kiện kinh tế xã hội và nâng cao thu nhập cho cộng đồng cư dân ven biển; góp phần tham gia bảo vệ an ninh, quốc phòng vùng biển đảo của Tổ quốc.
Đề án đặt mục
tiêu cụ thể đến năm 2025, diện tích nuôi biển đạt 280.000 ha, thể tích lồng
nuôi 10 triệu m3; sản lượng nuôi biển đạt 850.000 tấn. Giá trị kim
ngạch xuất khẩu đạt 0,8-1 tỷ USD. Đến năm 2030, giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt
1,8-2 tỷ USD.
Tầm nhìn đến
năm 2045, ngành công nghiệp nuôi biển của nước ta đạt ở trình độ tiên tiến với
phương thức quản lý hiện đại. Công nghiệp nuôi biển trở thành bộ phận quan trọng
trong ngành thủy sản, có đóng góp trên 25% tổng sản lượng và giá trị kim ngạch
xuất khẩu đạt trên 4 tỷ USD.
Nội dung, nhiệm
vụ của Đề án là phát triển đồng bộ hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ nuôi biển. Cụ
thể, rà soát, đánh giá về thực trạng và nhu cầu hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ
phát triển nuôi biển làm cơ sở đầu tư sản xuất.
Đầu tư cơ sở
hạ tầng kỹ thuật đồng bộ, hiện đại phục vụ phát triển nuôi biển xa bờ bao gồm
các hạng mục hạ tầng thiết yếu vùng sản xuất giống phục vụ nuôi biển, vùng nuôi
trồng thủy sản trên biển, công nghiệp hỗ trợ phục vụ nuôi biển, hệ thống quan
trắc môi trường nuôi biển tự động...
Hình thành
các đội tàu dịch vụ hậu cần phục vụ nuôi biển theo hướng đa chức năng, từ vận
chuyển giống, thức ăn đến thu hoạch, sơ chế, bảo quản sản phẩm sau thu hoạch.
Hình thành
vùng nuôi biển xa bờ tại các tỉnh trọng điểm
Về phát triển
nuôi biển gần bờ, ưu tiên phát triển nuôi, trồng các đối tượng có thị trường
tiêu thụ và lợi thế cạnh trạnh: Nhóm cá biển; nhóm giáp xác; nhóm nhuyễn thể;
nhóm rong, tảo biển; sinh vật cảnh và các đối tượng nuôi biển có giá trị kinh tế
khác.
Áp dụng
phương thức nuôi công nghiệp, ưu tiên phát triển các mô hình nuôi đa loài phù hợp
với từng vùng sinh thái, sức tải môi trường, gắn với bảo vệ, phát triển nguồn lợi
và đồng quản lý ở vùng bãi triều, đầm phá, rừng ngập mặn ven biển.
Với các tỉnh/thành
phố từ Quảng Ninh đến Ninh Bình, Đề án nêu rõ: Tiếp tục xây dựng khu vực Hải
Phòng - Quảng Ninh trở thành trung tâm nuôi biển, gắn với trung tâm nghề cá lớn;
trọng tâm phát triển nuôi biển ở các tỉnh gắn với bảo tồn biển và du lịch quốc
gia. Xây dụng các vùng sản xuất giống nhuyễn thể tập trung, đáp ứng nhu cầu giống
nhuyễn thể cho khu vực và cả nước.
Với các tỉnh/thành
phố từ Thanh Hóa đến Bình Thuận, phát triển nuôi biển gắn với chế biến thủy sản,
dịch vụ hậu cần và hạ tầng phát triển thủy sản. Phát triển nuôi biển ở các tỉnh
có điều kiện thuận lợi. Phát triển sản xuất giống cá biển, rong, tảo biển, sinh
vật cảnh tập trung. Xây dựng và vận hành mô hình đồng quản lý trong quản lý và
khai thác có hiệu quả, bền vững giống tôm hùm.
Còn với các tỉnh/thành
phố từ Bà Rịa - Vũng Tàu đến Kiên Giang, tập trung xây dựng phát triển nuôi biển
ở các địa phương có điều kiện; gắn kết hài hòa nuôi biển với dịch vụ, du lịch
sinh thái biển, dầu khí, điện gió, giữa phát triển nuôi biển và phát triển công
nghiệp chế biến.
Đối với phát
triển công nghiệp nuôi biển xa bờ, Đề án xác định sẽ phát triển mạnh nuôi các đối
tượng có lợi thế cạnh trạnh và có thị trường tiêu thụ lớn trên vùng biển xa bờ;
nhóm cá biển có giá trị kinh tế cao, nhóm nhuyễn thể và các đối tượng nuôi biển
có giá trị kinh tế khác.
Nuôi công
nghiệp, hiện đại, quy mô lớn, bảo đảm an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường sinh
thái, thích ứng với biến đổi khí hậu; sử dụng hệ thống lồng, bè có kết cấu và vật
liệu phù hợp với từng đối tượng nuôi, chịu được biến động thời tiết (sóng to,
gió lớn, bão).
Hình thành
các vùng nuôi biển xa bờ tại các tỉnh trọng điểm như Quảng Ninh, Hải Phòng, Quảng
Ngãi, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu, Cà Mau,
Kiên Giang và một số địa phương có điều kiện tự nhiên thuận lợi.
VTH