Phê duyệt chiến lược phát triển ngành nghề nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045
20/09/2023 - 10:58 | Tin tức, sự kiện trong tỉnh
Với mục tiêu chung
là phát triển ngành nghề nông thôn
nhằm phát huy tiềm năng của khu vực nông thôn, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh
doanh, tăng thu nhập, tạo công ăn việc làm và cải thiện đời sống vật chất, tinh
thần của người dân; góp phần bảo vệ môi trường, tôn tạo, giữ gìn cảnh quan,
phát huy truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc; phát triển kinh tế nông thôn gắn
với mục tiêu nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh.
Mục tiêu cụ thể của chiến
lược phấn đấu đến năm 2030 tốc độ tăng trưởng của nhóm ngành nghề nông thôn đạt
khoảng 6,0 - 7,0%/năm; thu nhập bình quân lao động trong các hoạt động ngành
nghề nông thôn gấp 2,5 - 3 lần so với năm 2020; Thu hút được khoảng 5 triệu lao động thường xuyên trong các
hoạt động ngành nghề nông thôn; giá trị xuất khẩu các mặt hàng ngành nghề nông
thôn đạt trên 6,0 tỷ USD/năm; tỷ lệ lao động qua đào tạo khu vực ngành nghề
nông thôn là 80% và tỷ lệ được cấp bằng, chứng chỉ đạt 35%; hình thành các vùng nguyên liệu tập trung, ổn
định đáp ứng 70% nhu cầu phát triển ngành nghề nông thôn.
Tầm nhìn đến năm 2045, phát triển ngành
nghề nông thôn tiếp tục là hoạt động mang
lại thu nhập, tạo việc làm cho lao động ở nông thôn, góp phần vào tăng trưởng
chung của nền kinh tế quốc dân; song song đó là theo hướng phát triển bền vững,
thông minh, thân thiện với môi trường, gắn với xây dựng không gian nông thôn
xanh, sạch, đẹp; gìn giữ và phát huy các giá trị văn hoá, lịch sử và truyền
thống của vùng, miền.
Chiến lược cũng đưa ra
một số định hướng phát triển theo từng nhóm ngành: Nhóm chế biến, bảo quản
nông, lâm, thủy sản; nhóm sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ; nhóm xử lý, chế biến
nguyên vật liệu phục vụ sản xuất ngành nghề nông thôn; nhóm sản xuất đồ gỗ, mây
tre đan, gốm sứ, thủy tinh, dệt may, sợi, thêu ren, đan lát, cơ khí nhỏ; nhóm
sản xuất và kinh doanh sinh vật cảnh; nhóm sản xuất muôi; nhóm dịch vụ phục vụ
sản xuất, đời sống dân cư nông thôn.
Trong đó:
- Nhóm chế biến, bảo quản nông, lâm, thủy
sản: Tăng tỷ lệ sử dụng máy móc, thiết bị và
áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường vào
sản xuất. Kết hợp phương pháp sản xuất truyền thống và hiện đại nhằm bảo tồn,
phát huy các sản phẩm đặc trưng vùng, miền, địa phương; cải tiến quy trình sản
xuất theo chuỗi, đảm bảo dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm, nâng cao chất
lượng sản phẩm nhằm tăng sức cạnh tranh, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm
trong nước và hướng tới xuất khẩu.
- Nhóm sản
xuất hàng thủ công mỹ nghệ: Tạo các mẫu mã sản phẩm mới phù hợp với thị
hiếu của người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu; phát triển sản xuất theo
hướng làm quà tặng, đồ lưu niệm phục vụ đối tượng khách du lịch; tăng cường
liên kết giữa các làng nghề thủ công mỹ nghệ, kết hợp các nguyên liệu, vật liệu
tạo ra các sản phẩm mới, độc đáo, có tính nghệ thuật, có khả năng sử dụng cao;
nghiên cứu, khuyến khích sử dụng nguyên liệu mới có nguồn gốc rõ ràng, thân
thiện với môi trường thay thế cho các nguyên liệu truyền thống đang dần khan hiếm;
tạo điều kiện hỗ trợ nghệ nhân, thợ giỏi và người lao động tham gia các khoá
học thiết kế mẫu mã, tạo hình, phối màu, phối hợp chất liệu trong sản xuất sản
phẩm thủ công mỹ nghệ.
- Nhóm xử lý, chế biến nguyên vật liệu phục vụ sản xuất ngành nghề nông thôn: Nâng cao năng lực các cơ sở xử lý, chế biến tạo ra các loại nguyên liệu mới, phù hợp với xu hướng phát triển của ngành nghề nông thôn; nhất là sản xuất nguyên liệu tái chế, thân thiện với môi trường và thay thế cho nguyên liệu nhập khẩu; hình thành các vùng nguyên liệu tập trung, quy mô lớn được cấp chứng chỉ bền vững gắn với các nhà máy sơ chế, chế biến, sản xuất các sản phẩm ngành nghề nông thôn, giảm phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu; hình thành các điểm sơ chế, chế biến các nguyên liệu cung cấp cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh ngành nghề nông thôn.
- Về bảo tồn và phát triển làng nghề: Tập
trung bảo tồn, khôi phục các nghề, làng nghề truyền thống đang có nguy cơ mai
một, thất truyền, gắn với du lịch; xây dựng các kênh phân phối, giới thiệu sản
phẩm làng nghề; phong tặng, tôn vinh và phát triển đội ngũ nghệ nhân, thợ giỏi,
người lao động trong các làng nghề, làng nghề truyền thống; ưu tiên thành lập
các hội, hiệp hội nghề ở các địa phương, các trung tâm đổi mới sáng tạo, doanh
nghiệp, cơ sở dạy nghề; hỗ trợ thiết kế mẫu mã, hoàn thiện sản phẩm, thông tin
thị trường phục vụ bảo tồn và phát triển nghề, làng nghề.
- Về thị trường tiêu thụ: Kết nối tiêu thụ sản phẩm với các đô thị lớn; đa dạng
hoá các loại hình dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng ngày càng cao; xây dựng
các chương trình du lịch nông thôn, du lịch làng nghề để xuất khẩu tại chỗ các
sản phẩm ngành nghề nông thôn đối với thị trường trong nước; Đa dạng hoá các
sản phẩm xuất khẩu vào các thị trường truyền thống như Trung Quốc, Mỹ, châu Âu,
Nhật Bản, Hàn Quốc…; mở rộng sang các thị trường tiềm năng khu vực Trung Đông,
Mỹ La tinh, châu Phi đối với thị trường xuất khẩu.
- Về bảo vệ môi trường
gắn với phát triển du lịch nông nghiệp, nông thôn, du lịch làng nghề: Khẩn
trương di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm trong khu dân cư vào các cụm công
nghiệp, khu sản xuất tập trung. Giữ gìn cảnh quan nông thôn gắn với làng sinh
thái, thông minh, bảo đảm xanh, sạch, đẹp và thân thiện môi trường; đồng thời
triển khai hiệu quả Chương trình phát triển du lịch nông thôn, du lịch làng
nghề trong xây dựng nông thôn mới; tập trung thu hút đầu tư, hoàn thiện cơ sở
vật chất; đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch; phát huy các giá
trị văn hóa truyền thống nông thôn; đa dạng hoạt động trải nghiệm du lịch làng
nghề, du lịch nông thôn.
Lài Nguyễn – Chi cục Phát triển nông thôn St (Nguồn: Báo
Chính phủ)