Ngành tôm bền vững nhờ kinh tế tuần hoàn
26/11/2024 - 21:11 | Tin tức, sự kiện trong tỉnh
Ảnh : Ông Trần Đình Luân - Cục trưởng Cục Thủy sản và ông Ngô Tiến Chương – Trưởng nhóm thủy sản GIZ chủ trì hội thảo
Hội thảo thu hút sự tham gia của hơn 100
đại biểu, đại diện các cơ quản quản lý trung ương và địa phương đến
từ 30 tỉnh, thành, viện nghiên cứu, trường đại học, các Hội và hiệp hội ngành
hàng tôm và các doanh nghiệp có liên quan chuỗi giá trị tôm nước lợ.
Phát biểu khai mạc hội thảo, ông Trần Đình
Luân, Cục trưởng Cục Thủy sản cho biết ngành tôm Việt Nam đóng vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế thủy sản, với 40% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản hàng năm,
đạt khoảng 4 tỷ USD. Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) chiếm 85% sản lượng tôm,
với hơn 200.000 ha áp dụng các mô hình canh tác tôm - lúa và tôm - rừng. Tuy
nhiên, ngành tôm đang phải đối mặt với hàng loạt khó khăn, từ biến đổi khí hậu,
ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, đến chi phí sản xuất cao và năng suất thấp. Nếu
áp dụng các mô hình kinh tế tuần hoàn và đổi mới sáng tạo, nhằm tối ưu hóa
nguồn lực và bảo vệ môi trường sẽ mở ra cơ hội rất lớn.
Theo ông Ngô Tiến Chương, trưởng nhóm thủy
sản của Tổ chức hợp tác Quốc tế Đức (GIZ) đã dẫn các thách thức với ngành tôm
Việt Nam như tỷ lệ thành công vụ nuôi thấp, chỉ hơn 40% (trong khi ở Ecuardor
là 65%); chi phí sản xuất cao hơn các nước trong nhóm đầu. Bên cạnh đó, tỷ lệ
lao động qua đào tạo nghề tại vùng ĐBSCL thấp nhất cả nước; việc liên kết sản
xuất còn bất cập; sản phẩm giá trị gia tăng thấp…
Bên cạnh đó, việc khai thác và sử dụng phụ
phẩm tôm còn nhiều hạn chế. Theo số liệu từ Cục Thủy sản phụ phẩm của thủy sản
Việt Nam mỗi năm từ 1,3 - 1,5 triệu tấn trong đó từ 400.000 - 500.000 tấn phụ
phẩm tôm mỗi năm, nhưng chỉ 10-20% được xuất khẩu và chủ yếu dùng cho chăn
nuôi. Giá trị phụ phẩm này chưa được khai thác hiệu quả, dù tiềm năng rất lớn.
Kinh tế tuần hoàn là giải pháp cho ngành
tôm
Kinh tế tuần hoàn (KTTH) được xem là mô
hình lý tưởng để giải quyết những bất cập hiện tại của ngành tôm. KTTH hướng
đến tối ưu hóa tài nguyên, giảm phát thải khí nhà kính và tăng giá trị gia tăng
cho sản phẩm. Đây là mô hình sản xuất khép kín, trong đó chất thải từ một quá
trình sẽ trở thành nguyên liệu đầu vào cho quá trình khác.
Một ví dụ điển hình là việc chế biến phụ
phẩm tôm thành chitosan, bột protein hoặc nguyên liệu cho ngành y dược và mỹ
phẩm. Sản phẩm từ phụ phẩm tôm có thể mang lại giá trị gấp 20 - 30 lần so với
chế biến thô. Nếu được khai thác tốt, ngành phụ phẩm tôm không chỉ giảm thiểu
lãng phí mà còn có thể mang lại doanh thu cả tỷ USD mỗi năm
Ngoài ra, mô hình nuôi tôm - lúa và tôm -
rừng là những hình mẫu áp dụng KTTH thành công. Mô hình tôm - lúa tận dụng chất
thải hữu cơ từ tôm để cải tạo đất và cung cấp dinh dưỡng cho lúa, trong khi mô
hình tôm - rừng không chỉ giúp bảo vệ rừng ngập mặn mà còn giảm thiểu chi phí
thuốc hóa học.
Tại hội thảo, ông Ngô Tiến Chương đã giới
thiệu ba giải pháp đổi mới sáng tạo đang được triển khai tại Sóc Trăng và Cà
Mau: Hệ thống nuôi tuần hoàn khép kín (RAS) là công nghệ giúp kiểm soát chất
lượng nước, giảm thiểu bệnh dịch, nâng cao năng suất và giảm tác động môi
trường. Mô hình nuôi tôm - rừng cải tiến giúp cải thiện chất lượng nước, tăng
tỷ lệ sống của tôm giống và sử dụng thức ăn tự nhiên. Cải thiện chất lượng nước
để giảm thiểu tác động từ biến đổi khí hậu, nâng cao chất lượng tôm giống và
đảm bảo an toàn sinh học. Những đổi mới này không chỉ giúp ngành tôm tiết kiệm
tài nguyên mà còn nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Phụ phẩm tôm là mỏ vàng chưa được khai phá
Phụ phẩm tôm khi được chế biến sâu thành
các sản phẩm phục vụ chăn nuôi có giá trị tăng từ 3-5 lần so với chế biến thô;
trong lĩnh vực thực phẩm, giá trị có thể tăng từ 5-10 lần; thực phẩm chức năng
đạt mức 15-20 lần và đặc biệt trong dược phẩm, giá trị có thể cao hơn 20-30
lần. Các sản phẩm như chitosan từ vỏ tôm hay bột canxi có giá trị gia tăng cao
nhưng vẫn chưa được ứng dụng rộng rãi.
Theo ông Hiếu, các sản phẩm chế biến từ
phụ phẩm tôm hiện có tới 80-90% tiêu thụ trong nước, trong khi xuất khẩu chỉ
chiếm 10-20%, chủ yếu sang các quốc gia châu Á như Trung Quốc và Thái Lan. Năm
2021, doanh thu từ phụ phẩm tôm đạt gần 4.000 tỷ đồng, và nếu được khai thác
tốt, con số này có thể tăng đáng kể, thậm chí đạt mức hàng tỷ USD. Ông Hiếu
nhấn mạnh phụ phẩm tôm cần được xem như sản phẩm chính, thậm chí có giá trị
vượt trội hơn.
Để thúc đẩy sự phát triển này, cần đầu tư
mạnh mẽ vào cơ sở hạ tầng chế biến phụ phẩm đồng bộ, kết nối chuỗi cung ứng và
chế biến phụ phẩm với các cơ sở sản xuất chính phẩm. Cần khuyến khích và hỗ trợ
doanh nghiệp đầu tư, nâng cấp trang thiết bị để thu gom, phân loại, sơ chế, bảo
quản và tiêu thụ phụ phẩm tôm một cách hiệu quả. Việc xây dựng các cụm liên kết
chế biến phụ phẩm tôm tại ĐBSCL sẽ giúp tối ưu hóa nguồn lực và giảm thiểu lãng
phí. Đồng thời, cần thúc đẩy chuyển giao công nghệ tái chế hiện đại, nhằm nâng
cao giá trị các sản phẩm phụ phẩm.
Chính sách và sự tham gia của cộng đồng
Phát triển KTTH trong ngành tôm cần sự
phối hợp chặt chẽ giữa chính phủ, doanh nghiệp và cộng đồng. Các chính sách như
Quyết định số 687/QĐ-TTg về phát triển KTTH và Quyết định số 1658/QĐ-TTg về
tăng trưởng xanh đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc. Tuy nhiên, cần có thêm cơ chế
ưu đãi và khuyến khích sự tham gia của các doanh nghiệp trong chuỗi giá trị.
Ngoài ra, việc đào tạo nguồn nhân lực và
nâng cao nhận thức cộng đồng cũng là yếu tố then chốt. Theo báo cáo, tỷ lệ lao
động qua đào tạo nghề tại ĐBSCL hiện rất thấp, chỉ 13,3%, là rào cản lớn đối
với việc áp dụng các công nghệ hiện đại.
Hội thảo ngày 22/11/2024 đã khẳng định
rằng KTTH là xu hướng tất yếu để ngành tôm Việt Nam phát triển bền vững. Với sự
hỗ trợ từ các chính sách, công nghệ đổi mới và sự tham gia tích cực của cộng
đồng doanh nghiệp, ngành tôm không chỉ giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường
mà còn nâng cao giá trị gia tăng, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước. Ngành tôm Việt Nam hoàn toàn có thể trở thành hình mẫu cho
sự kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, góp phần xây dựng một
tương lai bền vững.
Thúy Nga