Kết quả thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X "về nông nghiệp, nông dân, nông thôn" trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu

27/10/2021 - 16:05 | Tin tức, sự kiện trong tỉnh

Sau 13 năm thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, cơ cấu ngành nông nghiệp của tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đã có sự chuyển biến rõ rệt, tốc độ tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước.

* Về thực hiện tái cơ cấu xây dựng nền nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại; phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn: Sản xuất nông nghiệp tiếp tục phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu với chất lượng sản phẩm ngày càng đa dạng, trình độ canh tác có bước phát triển vượt bậc, chất lượng sản phẩm nông nghiệp ngày càng được cải thiện theo hướng bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm; đặc biệt là lĩnh vực nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao phát triển mạnh mẽ. Cơ cấu cây trồng dịch chuyển đúng định hướng, đi vào khai thác tiềm năng, thế mạnh của từng vùng sinh thái trong tỉnh; đã hình thành những vùng sản xuất chuyên canh tập trung về cây công nghiệp, cây ăn trái, rau, hoa với quy mô lớn đáp ứng nhu cầu nguyên liệu công nghiệp chế biến và thị trường tiêu thụ.

Theo đó, tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2008-2020 đạt 4,05%/năm, trong đó: nông nghiệp tăng 3,58%/năm (trồng trọt tăng 2,43%/năm, chăn nuôi tăng 5,43%/năm), thủy sản tăng 4,51%/năm (khai thác thủy sản tăng 4,12%/năm, nuôi trồng thủy sản tăng 9,22%/năm) và lâm nghiệp tăng 0,81%/năm. Diện tích, năng suất, sản

ết cấu hạ tầng nông thôn và đô thị hóa: Sau hơn 10 năm thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới (2010 - 2021), tính đến cuối tháng 9 năm 2021, toàn tỉnh có 45 xã được Ủy ban nhân dân tỉnh công nhận đạt chuẩn nông thôn mới; 19 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao. 3 đơn vị cấp huyện (Thành phố Bà Rịa, huyện Long Điền, huyện Đất Đỏ) đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận đạt chuẩn nông thôn mới; 3 đơn vị cấp huyện (thị xã Phú Mỹ, huyện Châu Đức và huyện Xuyên Mộc) đã có 100% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, đang hoàn thiện hồ sơ đề nghị công nhận đạt chuẩn nông thôn mới. Thu nhập bình quân đầu người tại các xã xây dựng nông thôn mới đạt trên 60 triệu đồng/người/năm; Tỷ lệ hộ nghèo quốc gia theo chuẩn đa chiều chỉ còn 0,09%.

* Về giảm nghèo, phát triển y tế, giáo dục, văn hóa xã hội nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của dân cư nông thôn:

* Về giảm nghèo: Đến nay, tổng số hộ nghèo, hộ cận nghèo còn lại đến cuối năm 2020 là 2.083 hộ, chiếm tỷ lệ 0,73%. Trong đó: Hộ nghèo chuẩn quốc gia là 257 hộ, chiếm tỷ lệ 0,09%; hộ cận nghèo quốc gia là 643 hộ, chiếm tỷ lệ 0,22%; hộ nghèo chuẩn tỉnh là 925 hộ chiếm tỷ lệ 0,32%; hộ cận nghèo chuẩn tỉnh là 258 hộ, chiếm tỷ lệ 0,1%.

* Về y tế: Đến nay, có 100% số xã trên địa bàn các huyện, thị xã, thành phố đạt chuẩn Bộ tiêu chí quốc gia về y tế; tỷ lệ người dân nông thôn tham gia bảo hiểm y tế đạt trên 80%. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng thể thấp còi nhỏ hơn 12%; công tác khám chữa bệnh cho người dân nông thôn ở tuyến huyện được quan tâm đầu tư.

 * Về giáo dục - đào tạo: Sự nghiệp giáo dục - đào tạo của tỉnh được quan tâm đầu tư, có sự phát triển cả quy mô lẫn chất lượng, ngoài nguồn ngân sách Trung ương và tỉnh, các địa phương đã nỗ lực phấn đấu huy động nhiều nguồn lực để mua sắm trang thiết bị dạy học; đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên từng bước được tăng cường cả về số lượng và chất lượng nhằm không ngừng nâng cao chất lượng dạy và học.

              Một số kết quả nổi bật:

             + Phổ cập giáo dục cho trẻ mầm non: 45/45 xã, đạt 100%.

             + Phổ cập giáo dục tiểu học: 45/45 xã, đạt 100%.

 + Phổ cập giáo dục trung học cơ sở: Tỷ lệ thanh, thiếu niên trong độ tuổi 15 đến  18 tuổi tốt nghiệp trung học cơ sở (2 hệ) đạt 95%. Trong đó tỷ lệ thanh thiếu niên trong độ tuổi 15 đến 18 tuổi đã và đang học chương trình giáo dục phổ thông, giáo dục thường xuyên, giáo dục nghề nghiệp đạt 91%

              * Về văn hoá:

   Hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao gắn với xây dựng nông thôn mới được tổ chức thường xuyên, đã mang lại hiệu quả thiết thực. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, trọng tâm là xây dựng “Gia đình văn hóa, “Thôn văn hoá, “Xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới” gắn với xây dựng xã đạt chuẩn nông thôn mới luôn được cấp ủy, chính quyền các cấp quan tâm chỉ đạo. Đến cuối năm 2020, toàn tỉnh có 262.767/283.555 gia đình đạt danh hiệu  “Gia  đình  văn  hóa”, đạt tỷ lệ  92,67%. (Năm 2008 có 170.166/188.786 gia đình đạt danh hiệu “Gia đình văn hóa”, đạt tỷ lệ 90%); 554/557 thôn, ấp, khu phố văn hóa, đạt 97,67% (năm 2008 có 435/545 ấp, khu phố văn hóa đạt tỷ lệ 79,8%; 45/45 xã đạt tiêu chí về văn hóa, đạt tỷ lệ 100%).

* Đổi mới và xây dựng các hình thức tổ chức sản xuất, dịch vụ có hiệu quả ở nông thôn:

* Về kinh tế hợp tác: Từ năm 2008 đến nay, các địa phương trên toàn tỉnh đã thành lập mới 75 hợp tác xã, nâng tổng số hợp tác xã trên địa bàn tỉnh lên 96 hợp tác xã với 2.853 thành viên, trong đó 88 hợp tác xã đang hoạt động (chiếm 92%) và 08 hợp tác xã ngừng hoạt động (chiếm 8%). Doanh thu bình quân của hợp tác xã đang hoạt động khoảng 3.000 triệu đồng/hợp tác xã, cao hơn mức bình quân chung của cả nước là 2.400 triệu đồng/hợp tác xã. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 20 hợp tác xã ứng dụng công nghệ cao theo Quyết định số 738/QĐ-BNN-KHCN, ngày 14/3/2017 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy định tiêu chí xác định chương trình, dự án nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch, danh mục ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp và ứng dụng tiên tiến trong sản xuất, quản lý. Các công nghệ được đầu tư, áp dụng vận dụng khá thành công trên địa bàn tỉnh đem lại chuyển biến tích cực trong sản xuất nông nghiệp, có khả năng nhân rộng. Nhìn chung, các hợp tác xã cơ bản đáp ứng được các khâu dịch vụ đầu vào phục vụ cho thành viên như dịch vụ thủy nông, tổ chức sản xuất, bảo vệ đồng ruộng, sản xuất giống,... Một số hợp tác xã đã mở rộng các dịch vụ có giá trị gia tăng như: Thu mua, chế biến nông sản; làm đất và thu hoạch bằng máy móc… Sự phát triển của các hợp tác xã nông nghiệp đã thu hút và tạo công ăn việc làm trực tiếp hoặc gián tiếp cho nhiều lao động nông thôn và góp phần ổn định thu nhập của người lao động trong các hợp tác xã.

* Về kinh tế trang trại: Tính đến cuối năm 2020, trên địa bàn tỉnh có 313 trang trại (đạt 69,6% so với mục tiêu Nghị quyết về phát triển trang trại), trong đó có 183 trang trại chăn nuôi (chiếm 58,47%), 105 trang trại trồng trọt (33,55%), 17 trang trại thủy sản (chiếm 5,43%) và 08 trang trại tổng hợp (chiếm 2,55%). Tổng diện tích đất sản xuất của các trang trại trên địa bàn tỉnh là 1.039,73ha; số lao động làm việc thường xuyên của trang trại là 2.166 người; kết quả sản xuất kinh doanh của trang trại bình quân đạt khoảng 3,5 tỷ đồng/năm; thu nhập của người lao động làm việc trong trang trại khoảng 70 - 80 triệu đồng/năm. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có nhiều mô hình trang trại điển hình, sản xuất ứng dụng công nghệ cao, làm ăn có hiệu quả, phổ biến nhân rộng, mang lại lợi nhuận cao, quan tâm tốt đến đời sống người lao động góp phần phát triển nên nông nghiệp mang tính bền vững, tham gia tích cực trong phong trào xây dựng nông thôn mới trên địa bàn.

* Về triển khai thực hiện nhiều dự án, mô hình sản xuất nông nghiệp có liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm bền vững có hiệu quả đang được nhân rộng:

* Đến nay, trên địa bàn tỉnh đã có nhiều mô hình liên kết hiệu quả giữa doanh nghiệp và nông dân trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm như: Hồ tiêu và sản phẩm từ hồ tiêu, nhãn xuồng cơm vàng, rau, măng tây, bưởi da xanh, nấm, dưa lưới, chuối, cacao, heo, gà, thủy sản một nắng (cá thu, cá đù), sản phẩm gạo.....

* Về lĩnh vực trồng trọt: Đã liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm trên cây trồng chính như hồ tiêu, cây ăn quả, rau các loại, lúa, cao su ... với tổng diện tích 16.041 ha. Trong đó: Lúa 105 ha; cao su 13.989 ha; cacao 200 ha; tiêu 913 ha; rau 12 ha; đinh lăng 200 ha; cây khác 55ha; cây ăn quả 567 ha (chuối 306 ha, thanh long 39 ha, nhãn 23 ha), Có một số hình thức liên kết điển hình như:

+ Cây hồ tiêu: Liên kết giữa Công ty Trách nhiệm hữu hạn Harris Freeman Việt Nam để triển khai dự án “Phát triển hồ tiêu bền vững tại Việt Nam” giai đoạn 2020 - 2022 trên địa bàn huyện Châu Đức và Xuyên Mộc, thực hiện liên kết sản xuất - tiêu thụ với 821 nông hộ với diện tích tương đương 820 ha,  Dự án đã hỗ trợ các nông hộ kỹ thuật sản xuất hồ tiêu, cam kết thu mua 100% sản phẩm.

+ Cây lúa: Tập đoàn Lộc Trời liên kết sản xuất tiêu thụ với nông dân với diện tích 60 ha và cam kết thu mua 100% sản phẩm; nông dân được hỗ trợ tư vấn kỹ thuật, mua vật tư thanh toán vào cuối vụ không tính lãi suất, giá bán cao hơn từ 100 - 200 đồng/kg lúa (tùy mùa vụ).

+ Cây rau: Công ty Trách nhiệm hữu hạn 4Kfarm hợp đồng với các hộ nông dân xây dựng 200 nhà màng với tổng diện tích 20 ha, sản xuất theo quy trình của Công ty và bao tiêu 100% sản phẩm với giá cố định 9.000 đồng/kg.

+ Cây cacao: Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thương mại, Dịch vụ Cacao Thành Đạt thực hiện hợp liên kết sản xuất tiêu thụ với nông dân với diện tích 200 ha, nông dân được hỗ trợ tư vấn kỹ thuật bao tiêu 100% sản phẩm.

* Về lĩnh vực chăn nuôi:  Xuất hiện các mô hình sản xuất hiệu quả cao như gà ta thả vườn, liên kết sản xuất, tiêu thụ vịt thịt, chuỗi chăn nuôi heo khép kín. Hiện trên địa bàn tỉnh có 113 trang trại chăn nuôi heo, gà thịt, vịt đẻ trứng đang thực hiện liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm (heo, gà, trứng vịt...) với các Công ty như CP, Japfa,... với hình thức nuôi gia công. Các trang trại còn lại sản xuất, kinh doanh theo phương án sản xuất riêng và cung cấp sản phẩm đầu ra cho thị trường trong và ngoài tỉnh; xây dựng và duy trì 33 sản phẩm chuỗi cung ứng thực phẩm an toàn, gồm tiêu và các sản phẩm từ tiêu, rau quả, thủy sản, thịt bò, thịt heo, trứng cút...

                                                                    HTN