Giá heo có thể quay lại mốc 70.000 đồng/kg?

14/08/2024 - 14:17 | Giá cả, thông tin thị trường

Theo ghi nhận của thị trường, giá heo hơi cả nước tăng rải rác ở một vài nơi từ ngày 6/8/2024. Cụ thể trong ngày hôm nay giá heo hơi ở miền Bắc không có biến động mới so với ngày hôm qua. Trong đó, thương lái tại Bắc Giang, Hưng Yên, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Nội và Tuyên Quang đang cùng thu mua heo hơi với giá cao nhất là 66.000 đồng/kg, mức thấp hơn là ở Lào Cai và Ninh Bình đang neo ở mức giá 64.000 đồng/kg. Các địa phương còn lại duy trì giao dịch với giá 65.000 đồng/kg. Như vậy, giá giao dịch hôm nay tại miền Bắc dao động trong khoảng 64.000 - 66.000 đồng/kg.

Thị trường heo hơi miền Trung, Tây Nguyên đi ngang trên diện rộng. Theo đó, mức giao dịch thấp nhất là 61.000 đồng/kg, tiếp tục có mặt tại Quảng Trị, Bình Định, Khánh Hòa và Đắk Lắk. Heo hơi tại các địa phương còn lại vẫn được giao dịch với giá trong khoảng 62.000 - 64.000 đồng/kg tùy khu vực. Hiện tại, giá thu mua heo hơi ở khu vực miền Trung, Tây Nguyên trong khoảng 61.000 - 64.000 đồng/kg.

          Tại khu vực miền Nam, giá thu mua heo hơi tương đối ổn định. Thương lái tại hầu hết các địa phương đang giao dịch heo hơi với giá quanh mốc trung bình là 63.000 đồng/kg. Tại Bà Rịa – Vũng Tàu giá heo hơi ghi nhận ở mốc 64.000 đồng/kg. Riêng tỉnh Đồng Tháp giảm nhẹ 1.000 đồng/kg về mức 61.000 đồng/kg. Giá heo hơi khu vực miền Nam dao động trong khoảng 61.000 - 64.000 đồng/kg.

Theo một số công ty chăn nuôi, giá heo hơi suy giảm trong bối cảnh dịch bệnh lan rộng và cả nước đang bước vào mùa ăn chay trong lễ Vu Lan. Mặc dù vậy, giá heo hơi không giảm quá sâu mà vẫn đang ở mức bình quân 63.400 đồng/kg do nguồn cung hạn chế. Dự báo giá heo hơi sẽ quay trở lại mức 70.000 đồng/kg trong giai đoạn cuối năm. Đây là tín hiệu tích cực đối với người chăn nuôi.

Tình hình chăn nuôi trên địa bàn tỉnh 07 tháng năm 2024

Thực hiện Nghị quyết số 14/2021/NQ-HĐND ngày 10 tháng 12 năm 2021 của Hội đồng Nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu quy định khu vực thành thị không được phép chăn nuôi các loại gia súc, gia cầm và các loại động vật khác trong chăn nuôi (trừ động vật làm cảnh hoặc nuôi trong phòng thí nghiệm mà không gây ô nhiễm môi trường). Trong khi tốc độ đô thị hoá ngày càng nhanh, và việc xây dựng lại cơ sở vật chất sau khi di dời gặp nhiều khó khăn, đây là một trong những nguyên nhân chính khiến ngành chăn nuôi trong đang có tốc độ tăng trưởng chững lại so với những tháng đầu năm 2024.

 Tăng trưởng chăn nuôi: Giá trị sản xuất ngành chăn nuôi giá trị sản xuất ngành chăn nuôi 363.152 triệu đồng, tăng 4,32% so cùng kỳ (lũy kế 2.469.518 triệu đồng, tăng 4,33% so cùng kỳ, đạt 57,6% kế hoạch, chỉ tiêu kế hoạch là 4,32%).

 

 Qui mô đàn vật nuôi thời điểm hiện tại: Tổng đàn heo ước đạt 404.446 con, tăng 4,3% so cùng kỳ; tổng đàn gia cầm khoảng 6,85 triệu con, tăng 3,4% so cùng kỳ; tổng đàn trâu bò ước đạt 55.796 con, tăng 3,5% so cùng kỳ; tổng đàn dê, cừu khoảng  99.003 con, tăng 3,5% so cùng kỳ.

 Sản phẩm chăn nuôi trong tháng 7 và 7 tháng đầu năm 2024:  Sản lượng thịt hơi các loại: 9.153 tấn, tăng 4% so cùng kỳ (lũy kế 64.320 tấn, tăng 4,1% so cùng kỳ, đạt 55,5% kế hoạch), trong đó: Thịt heo 5.865 tấn, tăng 4,2% so cùng kỳ (lũy kế 42.315 tấn, tăng 4,01% so cùng kỳ, đạt 54% kế hoạch); thịt gia cầm 2.436 tấn, tăng 3,6% so cùng kỳ (lũy kế 17.447 tấn, tăng 3,83% so cùng kỳ, đạt 58,5% kế hoạch); thịt trâu, bò 572 tấn, tăng 4,2% so cùng kỳ (lũy kế 4.081 tấn, tăng 4,3% so cùng kỳ, đạt 58,4% kế hoạch); thịt dê, cừu 280 tấn, tăng 3,7% so cùng kỳ (lũy kế 1.961 tấn, tăng 3,8% so cùng kỳ, đạt 58,3% kế hoạch). Trứng gia cầm: 22,017 triệu quả, tăng 7,3% so cùng kỳ (lũy kế 154.913 triệu quả, tăng 7,9% so cùng kỳ, đạt 58,5% kế hoạch); sữa tươi 67 tấn, bằng 98,5% so cùng kỳ (lũy kế 467 tấn, bằng 98,7% so cùng kỳ, đạt 58,4% kế hoạch).

                                                Hạnh Nguyễn – chi cục Chăn nuôi Thú y