Để khoa học công nghệ trong chăn nuôi và thú y đột phá
16/05/2025 - 14:11 | Tin tức, sự kiện trong tỉnh
Trong khuôn khổ Hội nghị triển khai Kế hoạch
thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW do Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối
hợp tỉnh Bắc Ninh thực hiện, chiều 10/5, diễn ra phiên thảo luận về các lĩnh
vực Chăn nuôi - Thú y - Thủy sản nhằm thảo luận về các định hướng nghiên cứu,
cơ chế chính sách, ứng dụng công nghệ tiên tiến, thúc đẩy thương mại hóa sản
phẩm khoa học phục vụ phát triển ngành.
Liên quan đến lĩnh vực chăn nuôi, thú y, ông
Dương Tất Thắng, Cục trưởng Cục Chăn nuôi và Thú y cho biết, khoa học công nghệ
trong ngành chăn nuôi, thú y đã được quan tâm từ rất sớm, đến nay cũng đã đạt
được một số thành công: "Khoa học công nghệ tiên phong, nhà nước kiến tạo,
doanh nghiệp đua tài và người dân hưởng lợi".
Với Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển
khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, ông Thắng cho
rằng, chưa bao giờ khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo lại được quan tâm như
vậy: "Ngành chăn nuôi, thú y cũng đang hòa nhịp trong dòng chảy đó".
Theo Cục trưởng Cục Chăn nuôi và Thú y, ngành
chăn nuôi, thú y hiện nay phát triển xoay quanh 5 trụ cột chính gồm: Giống;
Thức ăn; Công nghệ môi trường; Phòng chốnh dịch bệnh; Giết mổ chế biến, mỗi yếu
tố đều đang được thúc đẩy mạnh mẽ thông qua ứng dụng khoa học công nghệ và đổi
mới sáng tạo.
Định hướng và giải pháp
Về định hướng nghiên cứu trong thời gian tới,
ông Dương Tất Thắng nhấn mạnh sẽ nghiên cứu chọn tạo giống vật nuôi năng suất
cao, chất lượng cao, thích ứng với biến đổi khí hậu, kháng bệnh tốt bằng công
nghệ sinh học.
Cùng với đó, phát triển ngành công nghiệp chế
biến thức ăn chăn nuôi theo Đề án Phát triển công nghiệp chế biến thức ăn chăn
nuôi đến năm 2030 Thủ tướng.
Về công nghệ chuồng trại và quản lý môi trường
chăn nuôi, ông Thắng nhấn mạnh tiếp tục phát triển ngành công nghiệp chuồng
trại và xử lý chất thải chăn nuôi.
Trong đó, ưu tiên phát triển nền tảng số hóa quản lý trại chăn nuôi, ứng dụng chuyển đổi số trong truy xuất nguồn gốc cơ sở và sản phẩm chăn nuôi, ứng dụng các thành tựu về công nghệ chuồng trại, trang thiết bị chăn nuôi, kiểu chuồng nuôi nhằm tối ưu hóa hiệu quả chăn nuôi, bảo vệ môi trường và ứng dụng công nghệ vi sinh vật, enzym, vật liệu nano trong xử lý chất thải chăn nuôi, sản xuất phân hữu cơ
Ngoài ra là các định hướng về phát triển các
mô hình chăn nuôi theo kinh tế tuần hoàn, chăn nuôi hữu cơ, chăn nuôi trên nhà
nhiều tầng, chăn nuôi đặc sản.
Chẩn đoán và kiểm soát dịch bệnh được định
hướng ưu tiên như phát triển bộ kit chẩn đoán nhanh, công nghệ xét nghiệm phân
tử (PCR nhanh, CRISPR-diagnostics), ứng dụng AI trong cảnh báo, dự báo dịch
bệnh động vật.
Cùng với đó, đẩy mạnh nghiên cứu vacxin thế hệ
mới, vacxin đa giá phòng nhiều bệnh, phát triển thuốc thú y sinh học, an toàn,
không kháng sinh, thân thiện môi trường.
Cuối cùng là chuyển đổi số trong thú y chú
trọng đến hệ thống quản lý dịch bệnh động vật quốc gia tích hợp dữ liệu đa
nguồn (big data), blockchain truy xuất nguồn gốc động vật, sản phẩm động vật.
Để thực hiện thành công những định hướng này,
Cục trưởng Dương Tất Thắng nhấn mạnh, cần hoàn thiện thể chế theo hướng tinh
gọn thủ tục hành chính, tạo đột phá về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo,
hiệu quả và hội nhập. Tiếp theo là hoàn thiện hệ thống truy xuất nguồn gốc sản
phẩm chăn nuôi, mã số vùng nuôi, giết mổ... và xây dựng cơ sở dữ liệu về quan
trắc môi trường.
Bên cạnh đó là phát triển công nghiệp sản xuất giống vật nuôi, phát triển công nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi. Nâng cấp hệ thống quản lý thông tin kiểm soát giết mổ, xây dựng hệ thống quản lý dữ liệu tập trung cho quản lý thuốc thú y và cuối cùng là tăng cường hợp tác quốc tế.
15 năm qua (2010-2024), năng suất chăn nuôi
ước tính tăng từ 5 - 20% tuỳ theo chỉ tiêu. Trong đó, sản lượng thịt các loại
tăng hơn 2 lần (từ 4.0 triệu tấn lên hơn 8,28 triệu tấn), trứng tăng 3 lần (từ
gần 6,4 tỷ quả lên 20,2 tỷ quả), sữa tươi tăng 4 lần (từ 0,3 triệu tấn lên 1,2
triệu tấn). Một số sản phẩm chăn nuôi bước đầu khẳng định
giá trị và thương hiệu Việt Nam trên thị trường quốc tế như: Mật ong, lợn sữa,
tổ yến, trứng vịt muối, sữa và thịt gà chế biến... |